ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ THIÊN CHÚA ĐÃ HỦY MÌNH RA
KHÔNG ĐỂ CỨU CHUỘC CON NGƯỜI
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ chủ đề Kitô học (Christology)
ngang qua đoạn thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Philiphê chương 2 câu 5-11. Mục
đích của đoạn thư này là làm sáng tỏ vai trò của Đức Giêsu như là Đấng Cứu Độ
con người. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã hủy mình ra không (emptied), vét
cạn chính mình (κένωσις, kénōsis) chỉ vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Đoạn thư
Pl 2,5-11 chứng minh 3 điều về Đức Giêsu: 1) Đức Giêsu là Thiên Chúa; 2) Đức
Giêsu sống mầu nhiệm tự hủy; 3) Vì vâng phục Cha mà đã chết trên thập giá để cứu
chuộc con người. Đồng thời đoạn thư trên cũng mạc khải việc Đức Giêsu được Chúa
Cha siêu tôn và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu, và tất cả
mọi sự đều quy hướng về Đức Giêsu Kitô, để nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mọi
danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha trong sự hợp nhất của Chúa Thánh
Thần đến muôn thủa muôn đời.
I.
PHẦN
TRIỂN KHAI VÀ PHÂN TÍCH
1.
BỐI
CẢNH BẢN VĂN
1.1 Định
vị bản văn với nguồn gốc và chủ đề
Thư Philiphê được thánh Phaolô viết khi đang ở tù (có người
cho là ở Êphêxô, có người cho là ở Xêdarê hoặc Rôma (x.Pl 1,7 khoảng năm 54-63).
Khi biết tin Phaolô đang ở tù, anh em tín hữu Philiphê đã nhờ ông Êpáprôđitô
mang quà đến và thánh Phaolô nhân dịp này gửi thư cho tín hữu Philiphê. Nội
dung chính của thư Philiphê là thánh Phaolô cho biết những tin tức liên quan đến
ngài, cảm ơn anh em đã quan tâm và chia sẻ với ngài lúc khó khăn. Thánh nhân
khuyên họ trung tín với Đức Kitô cũng đừng để cho những đạo lý sai lạc len lỏi
vào cộng đoàn, làm lung lạc tinh thần anh em. Bên cạnh đó họ nên sống đoàn kết
và khiêm tốn theo gương Đức Giêsu Kitô và sống hòa nhã với nhau, hy vọng ngày
Chúa Kitô quang lâm. Nói chung, bức thư này bộc lộ niềm vui, và tâm tình của
thánh nhân với tín hữu Philiphê.
1.2 Mối
liên hệ của đoạn thư với bối cảnh xung quanh
Tổng quan của đoạn thư Pl 2,1-3,21, thánh Phaolô khuyến
khích các tín hữu Philiphê sống xứng đáng với Lời Chúa hơn. Chính yếu của đoạn
thư này như một bài thánh ca minh họa (exemplification) về Đức Giêsu Kitô như
là mẫu gương tuyệt vời: từ một vị Thiên Chúa, Ngài đã chọn làm thân nô lệ;
trong giới nô lệ, Ngài chọn cái chết thập giá ô nhục, vì thế Ngài được tôn
vinh, được cả vũ trụ tôn thờ và được một danh hiệu ngang hàng với Thiên Chúa. Ngang
qua đó, thánh nhân ủy lạo (exhort) tín hữu nơi đây hãy sống khiêm tốn và hợp nhất
với nhau trong đời sống cá nhân cũng như trong cộng đoàn. Đây có thể là một bài
thánh thi của Hội Thánh sơ khai, được thánh Phaolô sử dụng lại và sửa đổi đôi
chút. Bài thánh ca này có thể nói là tâm điểm cho toàn thư Philiphê, vì nó mạc
khải minh nhiên về mầu nhiệm Đức Giêsu Nhập Thể và cứu chuộc con người.
2.
DỊCH
BẢN VĂN
2.1 Bản gốc Hy-lạp Philiphê 2, 5-11:
“5 Τοῦτο φρονεῖτε ἐν
ὑμῖν
ὃ
καὶ
ἐν
Χριστῷ Ἰησοῦ 6 Ὃς ἐν μορφῇ Θεοῦ
ὑπάρχων , οὐχ ἁρπαγμὸν ἡγήσατο
τὸ
εἶναι
ἴσα
Θεῷ, 7 ἀλλὰ ἑαυτὸν ἐκένωσεν,
μορφὴν
δούλου
λαβών,
ἐν ὁμοιώματι ἀνθρώπων
γενόμενος. 8 καὶ σχήματι εὑρεθεὶς ὡς ἄνθρωπος, ἐταπείνωσεν ἑαυτὸν,
γενόμενος ὑπήκοος
μέχρι θανάτου, θανάτου δὲ σταυροῦ. 9 Διὸ
καὶ
ὁ
Θεὸς
αὐτὸν
ὑπερύψωσεν
καὶ
ἐχαρίσατο
αὐτῷ
τὸ
ὄνομα
τὸ ὑπὲρ πᾶν
ὄνομα,
10 ἵνα
ἐν
τῷ
ὀνόματι
Ἰησοῦ πᾶν γόνυ κάμψῃ, ἐπουρανίων
καὶ ἐπιγείων καὶ καταχθονίων, 11 καὶ πᾶσα γλῶσσα ἐξομολογήσηται
ὅτι
ΚΥΡΙΟΣ ΙΗΣΟΥΣ ΧΡΙΣΤΟΣ εἰς δόξαν Θεοῦ Πατρός.”
2.2 Tham
khảo: (2 bản tiếng việt, 2 bản dịch tiếng anh)
Thư Philiphê 2,5-11, được dịch bởi:
- Nhóm các Giờ Kinh Phụng Vụ: “5
Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.
6 Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là
Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, 7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. 8
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. 9
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên
muôn ngàn danh hiệu. 10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên
trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; 11 và để
tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức
Giê-su Ki-tô là Chúa".
-
Lm. Nguyễn Thế Thuấn (CSsR): “5
Anh em hãy có tâm tư như đã có trong Đức Kitô Yêsu: 6 Ngài, phận là
phận của một vì Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị
đồng hàng cùng Thiên Chúa.7 Song Ngài đã hủy mình ra không,
là lĩnh lấy thân phận tôi đòi, trở
thành giống hẳn người ta; đem thân đội lốt người phàm,8 Ngài
đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho
đến chết, và là cái chết thập giá!9 Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn
Ngài! Và ban cho Ngài Danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, 10 hầu trước
Danh hiệu của Đức Yêsu, mọi gối đều phải
quì xuống bái lạy, chốn hoằng thiên, trên địa cầu, dưới gầm đất,11 và
mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: YÊSU KITÔ LÀ CHÚA, mà làm vinh quang cho Thiên
Chúa Cha.”
- The American Standard Version of the Holy
Bible (1901)
by Anonymous: Christ Jesus: 6 who, existing in
the form of God, counted not the being on an equality with God a thing to be
grasped, 7 but emptied himself, taking the
form of a servant,
being made in the
likeness of men; 8 and being found in fashion as
a man, he humbled himself, becoming obedient even unto death, yea, the death of the cross. 9
Wherefore also God highly exalted him, and gave unto him the name which is
above every name; 10 that in
the name of Jesus every knee should bow, of things in heaven and things on
earth and things under the earth, 11 and that every tongue should confess that
Jesus Christ is Lord, to the glory of God the Father.
- New American Bible-United States Conference
of Catholic Bishops: 5 Have among
yourselves the same attitude that is also yours in Christ Jesus, Christ Jesus, 6
Who, though he was in the form of God,
did not regard equality with God something to be grasped. 7 Rather,
he emptied
himself, taking the form of a slave,
coming in human likeness; and found human in appearance,8
he humbled himself, becoming obedient to death, even death on a cross. 9 Because
of this, God greatly exalted him and bestowed on him the name that is above every name,10 that
at the name of Jesus every knee should bend, of those in heaven and on earth
and under the earth,11 and every tongue confess that Jesus Christ is
Lord, to the glory of God the Father.
2.3
Những chỗ dịch khác nhau quan trọng và phê bình từng chỗ
Câu HY LẠP CGKPV NTT The American Standard New American Bible
6 ὑπάρχων vốn
dĩ phận là existing in was in
7a ἐκένωσεν trút bỏ hủy
mình emptied himself emptied himself
7a δούλου nô lệ phận
tôi đòi servant slave
7b ἐν ὁμοιώματι ἀνθρώπων sống
như người trần thế đội lốt người
phàm being made in the likeness of
men found human in appearance
8 ‘ὑπήκοος bằng lòng vâng phục obedient obedient
Dựa vào bảng trên, chúng ta có
thể phê bình từng từ:
- Từ: ὑπάρχων với 4
bản dịch trên là: vốn dĩ; phận là;
existing in; was in. Vậy đâu là
kiểu dịch chính xác nhất, thật khó lòng đưa ra câu trả lời xác đáng, nhưng xét
về chữ “was in” nằm ở thì quá khứ,
đang khi đó từ “existing in” lại là
thì tiếp diễn, nghĩa là diễn tả thực sự vẫn còn có, đã và đang còn tồn tại. Tiếng
Việt dịch là “vốn dĩ”
và “phận là”, theo từ điển (1)[i]: từ “vốn dĩ”có nghĩa nguyên là, cái căn nguyên vẫn là… và từ “phận”(2)[ii]
ám chỉ số mệnh, địa vị. Xem ra từ “vốn dĩ”
diễn nghĩa sắc bén hơn từ “phận”, vì
nó cho thấy bản chất đúng của thực tại: Đức Giêsu đã là Thiên Chúa đang là
Thiên Chúa và mãi là Thiên Chúa.
- Từ
ἐκένωσεν
(ekenōsen) với 4
bản dịch trên: trút
bỏ, hủy mình, emptied himself và emptied himself. Xem ra 2 bản dịch Tiếng Anh giống nhau
về từ này, nhưng về bản dịch Tiếng Việt lại hoàn toàn khác: một bên là “trút bỏ” vinh quang và một bên là “hủy mình” ra không. Vậy bên nào sáng
nghĩa hơn? Xét về 2 bản dịch Tiếng Anh cùng dùng chung từ: “emptied himself” nghĩa là làm rỗng chính
mình. Vậy, bản dịch của Cha Thuấn dùng từ “hủy
mình” ra không là đúng nghĩa ư? Chưa hẳn là vậy, với từ “hủy mình” ra không có thể hiểu rõ nghĩa
Đức Giêsu đã hóa ra không như con người; nhóm các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV)
dùng từ “trút bỏ” vinh quang, có
nghĩa là Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, đầy đủ uy lực và vinh quang, nhưng
Ngài đã trút bỏ những cái đó, nghĩa là Ngài tàng giấu “Cái Là” đi. Xét về mặt
chữ với 2 bản dịch tiếng anh, cha Thuấn có vẻ dịch sát mặt chữ, nhưng xét về
nghĩa ngữ, có lẽ nhóm CGKPV dịch sắc bén nghĩa hơn, lột tả được thực nghĩa của
từ.
- Từ
δούλου
(doulou) thứ tự
dịch thuật như sau: nô lệ, phận tôi đòi, servant và
slave. Xét về hai bản văn Tiếng Anh,
từ “servant” mang nghĩa: người hầu,
người đầy tớ phục vụ chủ, đang khi đó, từ “slave” mang nghĩa người nô lệ, một người không có tự do.
Xét về mặt cường độ, có vẻ từ “slave” mang
nghĩa nặng và mạnh hơn từ “servant”.
Xét về hai bản dịch của Tiếng Việt, từ “nô
lệ” có nghĩa là(3)[iii]: người lao động bị tước
hết quyền làm người, trở thành sở hữu riêng của những người chủ nô, người bị phụ
thuộc vào một thế lực thống trị nào đó, và phải làm đầy tớ; từ “phận tôi đòi” có nghĩa(4)[iv]: người phải đem thân ra hầu
hạ, phục dịch kẻ khác. Về ngữ nghĩa, từ “nô
lệ” diễn tả mạnh hơn từ “phận tôi đòi”,
“nô lệ” là không có tự do, hoàn toàn
phụ thuộc vào người chủ. Thế nên xét theo một nghĩa trực quan, Đức Giêsu hoàn
toàn có tự do, nhưng vì vâng phục thánh ý Chúa Cha nên Ngài đã chấp nhận làm “nô lệ”, nghĩa là phụ thuộc hoàn toàn vào
Chúa Cha.
- Từ ἐν ὁμοιώματι
ἀνθρώπων (hōs
anthrōpōs) với 4 bản dịch trên là: sống
như người trần thế; đội lốt người phàm; being made in the
likeness of men; và found human in appearance. Hai
bản văn trong Tiếng Anh có những từ ngữ khác nhau rõ rệt, “being made in the likeness of men” có nghĩa là: được thành hình,
làm nên giống hệt như con người. Đang khi đó bản dịch kia là: “found human in appearance”
với nghĩa: diện mạo, bề ngoài xuất hiện, được nhìn thấy là người, có vẻ nghĩa của
hai cụm từ này trong Tiếng Anh tương đồng với nhau. Xét về bản văn Tiếng Việt
thì ngược lại, có hai cách dịch hoàn toàn khác nhau. Cha Nguyễn Thế Thuấn dịch
từ “ώς αυθρωπωσ” này với nghĩa: “đội lốt phàm nhân”, dịch
như vậy có vẻ không sát nghĩa thực cho bằng “trở nên giống phàm nhân” (như bản dịch của nhóm CGKPV). Theo từ điển,
từ “đội lốt”(5)[v] có nghĩa là: mang danh
nghĩa bề ngoài, cải trang, che giấu bản chất xấu xa bên trong. Thế nên, dịch “đội lốt phàm nhân” có vẻ nghe hơi tiêu cực
và không lột tả, toát lên hết được bản chất và ý nghĩa thật của thực tại.
- Với từ ὑπήκοος (hyēkoos) thứ tự
4 bản dịch trên là: bằng lòng; vâng phục; obedient;
và obedient. Hai bản dịch Tiếng Anh đã giống nhau, nhưng bản dịch Tiếng Việt
có sự khác biệt “bằng lòng” và “vâng phục”.
Trong từ điển từ “bằng lòng” có nghĩa(6)[vi]: là cảm nhận thấy như vậy
là được, là ổn, là đồng ý, chấp nhận. Đang khi đó, từ “vâng phục”(7)[vii] có nghĩa: tuân theo,
nghe theo mệnh lệnh của người trên. Xét một khía cạnh nào đó, nghĩa của 2 từ “vâng phục” và “bằng lòng” cũng tương đương với nhau, thế nên dùng một trong hai chữ
cũng đều sáng nghĩa, diễn tả việc Đức Giêsu vâng phục với sự hài lòng, bằng
lòng để thực thi Thánh Ý Chúa Cha.
2
PHÂN
TÍCH BẢN VĂN THEO LỐI DÙNG TỪ KHÓA
3.1
Những Từ Khóa Quan Trọng Trong Bản Văn
Trong
bản văn Pl 2,5-11, chúng ta sẽ tập trung diễn nghĩa, phân tích và đào sâu về 4
từ chính yếu đó là: Vốn dĩ: ὑπάρχων
“being in very nature God” [ε’vμopφη θεοϋ ύπαρλωυ]; Trút bỏ: ἐκένωσεν, emptied; Nô lệ: δіακουέω, slave; Vâng
lời: ‘ὑπήκοος,
obedient.
3.1.1 Diễn Nghĩa và Phân Tích Các Từ
a. Diễn Nghĩa các từ
Vốn dĩ: ὑπάρχων: trong
Volum(8)[viii] 3 dẫn
chứng: “being in very nature God” [ε’vμopφη θεοϋ
ύπαρλωυ] (vốn dĩ là bản chất Thiên Chúa thực), nhưng không xem là ngang hàng với
Thiên Chúa [ούχ ‘αρπλyμόυ τōείυαi ‘ίσαθεω] (Pl 2,6). Thật vậy, “Ngài đã làm
chính Ngài ra không ngang qua việc đảm nhận bản chất của một ngươi tôi tớ”
[μορθηυ δοϋλου λαβώυ], và trở nên giống như con người (2,7). Điều này được lặp
lại trong Ga 1,1-2; 17,5; và thư Hr 1,3.
Trút bỏ: ἐκένωσεν, với
câu Pl 2,7 này, trong Volum 1(9)[ix] đã diễn nghĩa: Con Thiên
Chúa đã trút bỏ chính Ngài (Son of God divesterd himself) để trở nên con con
người, mặt lấy một bản chất thực như con người tôi đòi [μopφηv ]. Từ “trút bỏ”
(ekênôsen) này được lặp lại cũng
trong thư Pl 2,16 với từ (eiskenōn).
Trong Volum 2(10)[x]
cho rằng: Ngài làm rỗng chính mình trong ý nghĩa là Ngài tự do thay đổi
(exchanged) sự tiền hiện hữu, và sự thánh thiêng của Ngài trở nên sự hiện hữu
trần thế, con người.
Nô lệ:
δούλου
với
câu Pl 2,7, từ người nô lệ (doulou δіακουέω) được dùng để diễn tả về Đức Giêsu ở
trần thế. Trong Volum 4 (11)[xi] cho rằng: thánh Phaolô
nói Đức Kitô nhập thể được tìm thấy “trong hình dạng một người” [σχήμαπ
ώςάυθρωπος], một người rất thực mà người đó xuống tận cùng như là “nô lệ”.
Chúng ta cũng thể tìm thấy từ “nô lệ” này trong đầu thư Philiphê khi thánh
Phaolô cũng cho mình là tôi tớ của Đức Giêsu Kitô (Pl 1,1). Từ Nô lệ:
δіακουέω (doulou) cũng được tìm thấy trong: Is 53,3.11; Ga 1,14; Rm
1,1; 7,6.25; 8,3; 12,11; 2 Cr 8,9; Gl
4,4; Hr 2,14.17; Plm 1,1; 2,22; Gl 5,13.
Vâng lời: ὑπήκοος,
trong Volum 4(12)[xii]
chúng ta thấy nghĩa của từ này là ύπακούω
(hypakouō) có nghĩa “lắng nghe” và “trả lời”. Dịch ra chữ “vâng lời” (ύπήκοος)
theo mạch văn, để diễn nghĩa: vâng lời cho đến nỗi chịu chết, và chết trên thập
giá (c. 8). Từ vâng lời này cũng được thấy ở cùng thư Philiphê 2,12 “obeyed”
(hypē kousdte). Danh từ ύπακοη được
chứng thực ở trong LXX (2 Sm 22,36), dĩ nhiên nó cũng được tìm thấy trong Mt
20.28; Ga 10,17; Hr 5,8; 12,2
b. Phân tích các từ
Chúng ta cùng phân tích một số câu chữ để làm sáng tỏ ngữ
nghĩa của bản văn(13)[xiii]
Từ Vốn dĩ:
ὑπάρχων: who, being in essence God: câu 6
có từ essence (vốn dĩ là) tiếng Hy lạp
là Morphē, từ này được diễn tả theo 3 cách: (1)
như một hạn từ triết học; (2) như có gốc chung với những từ eidos hoặc homoiōma trong bản LXX và mang nghĩa
“outward form” (dạng nghĩa rộng); (3) trong bản văn của phái Hellenistic
Gnostic từ đó có dành cho bản chất Thiên Chúa.
Từ
ὑπάρχων
được dùng 3 lần trong Tân Ước, mà có tới
2 lần trong câu 6 và 7 của thư Philiphê. Từ
ὑπάρχων này là hạn ngữ triết học Hy lạp được dùng bởi Aristotle để diễn tả
“true Being” (bản thể thực), một thực thể không bao giờ thay đổi. Từ ὑπάρχων này
ám chỉ về Thiên Chúa gồm cả “tình trạng”
và “điều kiện” của Người. Dĩ nhiên, “tình trạng” và “điều kiện này” bất khả với con người. Một điểm cũng cần lưu ý thêm
là từ ὑπάρχων cũng
được dùng trong cựu ước St 1,26 để diễn tả về Adam, thế nên, có mối liên hệ giữa
Đức Kitô và Adam bắt đầu từ những hạn ngữ ὑπάρχων và εικων (eikōn). Chỉ về bản chất thực của Đức
Giêsu và Adam được thành hình theo dạng thức, hình ảnh Thiên Chúa (St 2,26).
Có một vài học giả đề nghị rằng: có hai từ trên được dùng
trong những ngữ cảnh giống nhau với ngụ ý chung và từ sự kết nối này một hình
thể về Đức Kitô và Adam trong một bài thánh ca (hymn)(14)[xiv]. Thế nhưng, có học giả
khác là Dave Steenburg, ông đã cho rằng nghĩa của ὑπάρχων và εικων khác
nhau, không có nghĩa tương đồng nhau. ὑπάρχων được
sử dụng trong sự mô tả về sự tạo thành nhân tính trong hình ảnh của Thiên Chúa
một cách chính xác vì nó bao hàm những gì mà εικων không hàm chứa được. Vì thế, cụm từ
“being in essence God” (vốn dĩ là Thiên Chúa) là một sự xác định mạnh mẽ về thần
tính của Đức Giêsu.
Từ trút bỏ: ἐκένωσεν,
(ekenōsen): câu 6
nói với chúng ta những gì Đức Kitô không thực hiện, nhưng câu 7 này nói về những
gì Đức Kitô đã thực hiện. Trong bản văn Hy lạp dùng từ ekenōsen (emptied: đã vét cạn, vét rỗng chính mình), đây có thể xem
là một từ khóa then chốt để mô tả về sự chọn lựa của Đức Giêsu về sự từ bỏ những
vinh quang, năng quyền uy linh của Ngài (1 Cr 1,17; 9,15; 2 Cr 9,3). Đức Giêsu
thực hiện hành động này cho chính Ngài, Ngài chính là chủ thể thực hiện hành động
đó và cũng là đối tượng của hành động đó, nghĩa là Ngài có tất cả nhưng đã hóa
ra không. Từ ekenōsen
diễn nghĩa là tình trạng ngang hàng với Thiên Chúa của Đức Giêsu giờ
đây tạm thời bị ẩn tàng (suspended) trong thời gian Ngài ở trần thế. Đây chính
là một trong những điểm son trong việc nghiên cứu về Kitô Học (Christology).
Từ Nô lệ: δούλου (doulou), taking the essense of a
slave: điệp ngữ này lại được lặp lại với hạn từ “essence” (morphē) đã được sử dụng ở câu 6. Điều này có thể nhấn mạnh
rằng Đức Giêsu thực sự là Thiên Chúa, Ngài cũng thực sự là một nô lệ (Ga 13,5-17).
Từ nô lệ được xuất hiện nhiều lần trong Kinh Thánh, riêng các thư của Phaolô
dùng từ nô lệ chỉ về chính ngài được tìm thấy trong (Rm 1,1; Plm 1,1), và
mô tả chung của Phaolô về đời sống Kitô hữu (Rm 7,6.25; 12,11; Gl 5,13; Plm
2,22). Nô lệ là một người hoàn toàn không có quyền gì, những người
nô lệ hoàn toàn lệ thuộc vào ý muốn của người chủ (Kn 9,4-7; Cl 3,22; Ep
6,5-9). Sự so sánh tuyệt vời của Phaolô: Đức Giêsu có vinh quang tột bậc, cao
nhất của Thiên Chúa mà cũng hạ cố làm người nô lệ thấp nhất của phận người morphē (essense of God/
essense of a slave).
3.2 Cấu trúc
và ý nghĩa đoạn Kinh Thánh Pl 2,5-11
Cầu
trúc: chúng ta có thể chia đoạn thánh ca Philiphê Pl 2,5-11 thành
hai phần: phần I từ câu 6-8 và phần II từ câu 9-11. Câu 6-8 mô tả về những hành
động của Đức Giêsu, Ngài là chủ thể của hành động, nhưng câu 9-11 mô tả hành động
của Thiên Chúa, Thiên Chúa là chủ thể và Đức Giêsu là đối tượng. Phần I Đức Giêsu
chọn lựa và thực hiện, phần II Thiên Chúa đáp lại chọn lựa và hành động của Đức
Giêsu. Cách chung, có thể thấy Đức Giêsu hạ cố làm người mọn hèn và được Thiên
Chúa nâng lên; Đức Giêsu trần thế (câu 7b-8) và Đức Giêsu được vinh thăng (cầu
9-11). Dĩ nhiên, còn có nhiều cách chú giải, phân tích cấu trúc của đoạn thư Pl
2,5-11, như có người chia thành chia đoạn thánh ca trên thành bốn
hàng song đối nhau: 6-7b; 7c-8; 9; 10-11. Đang khi đó, có người lại chia ra hai
cấu trúc đồng tâm trong bài thánh ca, với Mầu nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa là
trọng tâm, như sau:
A.
Sự tiền hiện hữu của Đức Giêsu là Thiên
Chúa (c.6).
B’. Trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ
(c.7a).
C.
Nhập thể làm người (c.7b).
B’. Hạ
mình bằng lòng chịu chết (c.8).
A’. Đức
Giêsu được siêu tôn, ca ngợi là Thiên Chúa (c.9-11).
Ý nghĩa: của bản thánh ca Philiphê 2, 5-11
c.6: từ
muôn đời Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa, Ngài có đủ mọi danh dự, vinh quang
và uy quyền của một Thiên Chúa (x. Cl 1,15; Hr 1,3; G 1,1), nhưng Ngài đã không
muốn duy trì những điều đó, và cũng không muốn biểu lộ hay nhìn nhận, hoặc duy
trì bằng bất cứ cách nào.
c.7 Ngài
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, nghĩa là Ngài đã vét cạn chính mình ra
không để trở nên như con người mọi đàng, để chia sẻ với loài người tất cả những
yếu đuối như đói mệt, phiền nhọc, lao tác, đau khổ và phải chết (x. Gl 4,4;
Rm8,3; Hr 2,17) chỉ có điều là Ngài không phạm tội mà thôi.
c.8 Ngài
lại còn hạ mình không những như con người mà còn xuống tận cùng của phận người
khốn khổ là như nô lệ (Rm 6,16-18; Cl 3,22). Ngài còn đi đến tận cùng khốn là bằng
lòng chịu chết, và chết nhục nhã, tủi hổ trên cây thập tự (Đnl 21,35; Cl 3,13).
Ngài làm như vậy chỉ vì vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, đồng thời Ngài cũng cứu chữa
vết xe đổ của loài người là sự bất phục tùng của con người đầu tiên (Rm 5,19;
Hr 5,8), và cũng từ đó Ngài được nâng lên và kéo con người lên với Ngài (Ga
12,32).
c.9 Thiên
Chúa đã siêu tôn Đức Giêsu và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu của
mọi loài thụ tạo cũng như vũ trụ vạn vật…(Ep 1,10), đó như là một phần thưởng của
Chúa Cha dành cho Đức Giêsu Kitô.
c.10 nghe
danh thánh Giêsu, trên trời dưới đất và trong âm phủ… muôn vật phải bái quỳ. Câu
này có vẻ giống với Is 5,23: “mọi gối phải
quỳ xuống, mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng.” Cử chỉ tôn vinh, tán dương, thờ
phượng, chúc tụng này (Ep 1,21; Hr 1,4; 1 Pr 3,22) được dành riêng cho Đức
Giêsu với sự kính trọng cực thánh mà chỉ có Thiên Chúa mới được hưởng.
c.11 để
tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức
Giêsu Kitô là Chúa". Đây là lời tuyên xưng đức tin về thần tính của Đức
Giêsu Kitô (Rm 10,9; 1 Cr 12,3; Cl 2,6) là Thiên Chúa của thánh Phaolô, mà
không phải chỉ mỗi thánh nhân mà là muôn loài, muôn vật ở mọi thời và mọi nơi.
II. PHẢN TỈNH VÀ
SUY TƯ CÁ NHÂN VỀ ĐOẠN THÁNH CA PHILIPHÊ 2,5-11
Từ
những phân tích trên gợi lên trong tôi về chủ đề về: Mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu
ngang qua sự vâng phục. Thật vậy, khi học về 3 lời khấn trong đời tu, với
lời khấn khó nghèo, đoạn thánh ca này luôn là nguồn cảm hứng và rọi chiếu minh
nhiên hơn cho tôi về lời khấn vâng phục. Ngang qua sự vâng phục của Chúa Giêsu
với Chúa Cha, con người mới được cứu độ và đi vào một giao ước mới, vào sự sống
mới. Cái giá của sự vâng phục này rất cao (hủy mình ra không như nô lệ và phải
chết tức tưởi, hổ nhục trên thập giá) và phần thưởng là sự vinh thắng và siêu
tôn từ Thiên Chúa. Hy sinh nào cũng phải trả giá, sự trả giá càng đắt thì sự hy
sinh càng cao quý, vinh quang.
Chủ đề tiếp theo mà tôi cũng có cảm hứng từ
đoạn thánh ca trên là: nhân tính và
thiên tính của Đức Giêsu. Nhờ đoạn thư Pl 2,5-11 này, tôi có thể thấu triệt
rõ hơn về bản chất đích thực của Đức Giêsu. Ngài vừa là Thiên Chúa thật và vừa
là người thật. Ngài giống chúng ta mọi đàng (trừ tội lỗi), đã hạ cố làm người với
thân phận nô lệ, mọn hèn và khổ đau. Khi được vinh thắng, nhân tính của Người
vĩnh viễn đi vào thượng giới của Thiên Chúa (Ga 20,17), thiên tính và nhân tính
vẫn là một nơi Đức Giêsu.
Tóm lại ơn cứu độ là một hành động của sự
phục vụ khiêm tốn. Thánh ca về Đức Giêsu Kitô trong thư Philiphê là
bài diễn nghĩa mang tính cảm động và tổng quan nhất về đời sống Kitô hữu trong
Tân Ước. Nó diễn tả một Đấng là Thiên Chúa và ngang hàng với Thiên Chúa, với tất
cả quyền năng và vị thế cũng như vinh quang, và uy lực của Ngài có, Ngài đã tự
nguyện “emptied himself” (vét cạn, làm rỗng chính mình như không), nghĩa là
hoàn toàn từ bỏ chính mình, chỉ để hóa nên như con người và để cứu chuộc con
người khỏi diệt vong và được sống muôn đời. Đó chính là mầu nhiệm tự hủy (kenōsis) của
Đức Kitô.
Thực sự, chúng ta
không thể noi gương Đức Giêsu “vét cạn chính mình” như: Nhập thể, rửa chân cho
các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly, cho đến việc trao ban chính mình máu của Ngài
trên đồi Calvariô cho nhân loại. Điều đó không hề dễ với các tín hữu Philiphê
khi xưa cũng như chúng ta ngày nay, nhưng chúng ta có thể chọn những hành động
về sự bỏ mình hoàn toàn (complete self-emptying), ngang qua việc xem lợi ích của
người khác cũng hơn lợi ích của chính mình (Pl 2,4), đồng thời đặt niềm tin tưởng
hoàn toàn vào Đức Giêsu, Người sẽ cứu chúng ta khỏi những sự diệt vong sau hết,
vì chúng ta đã hủy mình hoàn toàn cho tha nhân như Ngài.
III.
KẾT
LUẬN
1.
Khái
quát lại chủ đề của bài
Chủ đề của bài nghiên cứu này là: Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa đã hủy
mình ra không để cứu chuộc con người, được các đề mục trên làm sáng tỏ
ý nghĩa qua các hạn từ then chốt, đồng thời cũng được đào sâu ý nghĩa chủ đạo
ngang qua bản văn Pl 2,5-11. Cách chung có thể thấy: Đức Giêsu là Thiên Chúa
(c.6) đã tự hủy mình ra không (c.7-8) nhằm để cứu chuộc con người. Thiên Chúa
có nhiều cách thức để cứu chuộc con người, Ngài có thể phán một lời là con người
mọi thời và mọi nơi được cứu thoát, thế nhưng cách đó không diễn tả được tình
yêu vô song của Thiên Chúa. Chỉ ngang qua sự tự hiến tận căn, hủy mình triệt để
của Chúa Giêsu Kitô, con người mới được cứu chuộc hoàn toàn. Nói chung, đoạn
thánh ca Pl 2, 5-11 đã mạc khải cho chúng ta những ý nghĩa sâu nhiệm về Mầu Nhiệm
Ngôi Hai Thiên Chúa làm người và Cứu Chuộc con ngươi.
2.
Tóm
lược vắn tắt các việc đã thực hiện như: xác định tư khóa ý nghĩa xác đáng, chọn
lọc từ có ý nghĩa và vài trò quan trọng với bản văn.
Dọc suốt các đề mục trên, tôi đã làm rõ các từ then chốt của bản
văn Pl 2,5-11 như là: từ “ὑπάρχων”
với nghĩa là: vốn dĩ; từ
ἐκένωσεν (ekenōsen) có nghĩa là: trút bỏ; từ δіακουέω (doulou) là: nô lệ;
từ ἐν ὁμοιώματι ἀνθρώπων
(hōs anthrōpōs) có
nghĩa là: sống như người trần thế;
và từ ὑπήκοος
(hyēkoos) được hiểu là: bằng
lòng.
Các
từ khóa này có nghĩa vô cùng quan trọng đối với bản văn, vì nếu dịch sai chữ có
thể dẫn đến ý nghĩa thực của bản chất sự việc cũng bị sai lệch, ví dụ: từ ἐν ὁμοιώματι
ἀνθρώπων
(hōs anthrōpōs) có
nghĩa là: sống như người trần thế, nhưng cha Thuấn dịch: đột lốt phàm nhân, câu này hoàn toàn mang nghĩa tiêu cực, làm sai lệch
bản chất thần học về nhân tính của Đức Giêsu. Nói chung, với việc tìm ra, sàng
lọc, chọn lựa những từ khóa then chốt thì rất quan trọng với bản văn, nhất là
những bản văn thường xuyên được dùng trong phụng vụ. Việc tìm ra từ phù hợp với
nghĩa xác đáng là việc làm thiết yếu quan trọng góm phần làm phong phú ý nghĩa
bản văn cách trực quan và sinh động hơn, nhờ đó mọi người có thể dễ dàng tìm gặp
được Thiên Chúa hơn.
3.
Tóm
tắt các suy tư: với những thành quả, với những ý nghĩa trong đời sống thực tiễn,
và tầm quan trọng của chủ đề này mở ra nghiên cứu tiếp theo.
Tựu chung, các suy tư, phân tích trên một phần nào đó đã góp
phần làm sáng tỏ ý nghĩa thực của bản văn Pl 2,5-11. Việc chọn lựa từ khóa,
phân tích, so sánh, đối chiếu và mổ xẻ câu chữ làm cho bản văn được sáng tỏ, rõ
nghĩa hơn là việc chỉ bám chặt vào một bản văn cố định. Chính những sự khác
nhau giữa những bản dịch là cơ hội để tìm hiều và đào sâu hơn ý nghĩa bản văn
cũng như cách thức thực hiện việc “chẻ chữ” từ bản văn đó.
Nhờ
việc nghiên cứu Kinh Thánh cách khoa học này, tôi mới có dịp làm phong phú hơn
kiến thức của mình, đặc biệt là nhờ đoạn Kinh Thánh Pl 2,5-11, tôi hiểu hơn về
nhân tính và thiên tính của Đức Giêsu Kitô, đồng thời là mầu nhiệm Ngôi Hai Cứu
Chuộc con người. Đối với mọi người, khi nghiên cứu về nhân tính và thiên tính của
Đức Kitô (hay Christology), có thể dùng bản văn Pl 2,5-11 làm cơ sở nền tảng để
phân tích và đầu sâu hơn.
Nếu tiếp tục nghiên cứu và đào sâu bản văn theo chiều hướng
đời tu, thiết nghĩ người viết có thể làm sáng tỏ hơn ý nghĩa lời khấn vâng phục
trong đời tu. Vì ngang qua mẫu gương lý tưởng của Đức Giêsu đã hủy mình ra
không để trở nên con người nhỏ bé và vâng phục ý Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu
chết trên thập giá, ngõ hầu cứu chuộc con người. Nói chung, nhờ đoạn văn này, mọi
người có thế nghiên cứu hơn về Kitô học và lời khấn vâng phục theo gương Đức
Giêsu Kitô.
Minh Đức S.J.
(1)
Nguyễn Như Ý, Đại từ điển Tiếng
Việt, nxb Văn Hóa-Thông Tin, p. 1829
(14) See. For example, the article listed below by Charles H. Talbert, “The Problem of Pre-Existence in Phil 2,6-11.”
0 Comments:
Không cho phép có nhận xét mới.