GẶP GỠ THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ TRONG CHÚA THÁNH
THẦN
Có một vấn nạn
được đặt ra cho không chỉ người Kitô hữu mà cả những người không cùng tôn giáo,
đó là làm thể nào con người có thể gặp gỡ được Thiên Chúa là Đấng Siêu Việt,
khôn dò khôn thấu? Thiên Chúa là một Thực Thể siêu phàm, đang khi đó con người
chỉ là thụ tạo hữu hình với những giới hạn phàm trần. Thực ra, so với hằng
thiên niên kỷ, so với vũ trụ bao la bát ngát, sánh với vạn vật phong nhiêu…con
người chẳng là chi cả. Đúng như lời tác giả Thánh vịnh số 8 đã viết: “con
người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm”. Thế
nhưng, cũng bởi tình yêu thương mà Thiên Chúa đã “trào thông” đến với con người, vì Người
là Đấng Chân-Thiện-Mỹ, Người là nguồn mạch và cùng đích của mọi sự. Ngài đã đi
bước trước, Ngài đến, gặp gỡ và mạc khải cho con người về chính Ngài. Nhờ đó mà
con người được hồng phúc thông dự vào sự sống thâm sâu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một cách sâu xa,
theo ý định nhân hậu, Thiên Chúa đã tự ý tạo dựng con người, để họ được thông
phần sự sống vĩnh phúc. Do đó, Người đã đến với con người. Thiên Chúa kêu gọi
con người, giúp họ tìm kiếm, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Người. Thiên
Chúa triệu tập mọi người đã bị tội lỗi phân tán để hợp nhất thành gia đình của
Người là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, khi tới thời viên mãn, Người đã cử
Chúa Con đến làm Đấng chuộc tội và cứu độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên
Chúa kêu gọi loài người trở nên nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần, và do đó, được
thừa kế đời sống hạnh phúc của Ngài.[1] Thành
ra, điều quan trọng nhất trong cõi nhân sinh mọi thời và mọi nơi vẫn là: sự sống
con người không gì khác hơn là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Vậy nhận
biết và yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào và như thế nào, chúng ta cùng làm rõ
trong các phần dưới đây.
I.
GẶP
GỠ THIÊN CHÚA NƠI ĐỨC KITÔ
Con người
tìm kiếm Thiên Chúa vì con người khát mong hướng về: nguồn Chân-Thiện-Mỹ (chỉ
có ở nơi Thiên Chúa), về nguồn mà từ đó con người được dựng nên, về nguồn mà
con người tìm được sự no thỏa, bình an và hạnh phúc lâu dài, sung mãn. Thật vậy,
"Hạnh phúc thay những tâm hồn tìm kiếm
Thiên Chúa" (Tv 105,3). Cách chung mà nói, cho dù con người có thể
quên lãng hay chối từ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn không ngừng kêu gọi mỗi người
tìm kiếm Người để gặp gỡ, để được sống và được hạnh phúc với Ngài và trong
Ngài.
Bởi vì bản
tính của Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8), tình yêu đó không dừng lại nơi
chính Ngài mà chảy tràn, trào thông tình yêu đó đến với con người. Tình yêu đó
được Thiên Chúa diễn tả, mạc khải từ thủa khai thiên lập địa, từ khi con người
được thành hình, trải qua bao thế hệ từ Cựu Ước đến Tân ước, và như thánh
Phaolo đã nói: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều
cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán
dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Rm 1,1-2). Thánh Tử đó chính là Chúa Giêsu
Kitô.
1.1
Thiên Chúa Cha Được Mặc Khải Bởi Đức Giêsu Kitô
Đức Giê-su
đã mặc khải cho ta biết Thiên Chúa là "Cha" theo một nghĩa chưa từng
có : Người không chỉ là Cha vì là Tạo Hóa, từ muôn thuở Người là Cha trong
tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương
quan với Ngôi Cha : "Không ai biết
Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà
Người Con muốn mặc khải cho" (Mt 11,27).[2]
Thánh Gioan đã mạc
khải chân lý tối cao cho chúng ta, đó là: "Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết."
(Ga 1,18). Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, và đã tỏ cho chúng ta biết Ngài là: "con đường, là sự thật và là sự sống. Không
ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài" (Ga 14,16). Đức Giêsu là con đường
cứu độ, là đường siêu thoát để chúng ta có thể gặp gỡ được Thiên Chúa Cha, là sự
thật mà chúng ta khát khao tìm kiếm, và là sự sống, sự sống viên mãn đời đời mà
chúng ta được ưu ái thông dự trong Chúa Thánh Thần.
1.2
Đức Giêsu là Đường.
“Chính Thầy là con đường…. Không ai đến với
Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6), Đức Giêsu đã khẳng định với chúng
ta: Ngài là con đường duy nhất để nhân loại có thể đến được với Chúa Cha. Ngài
cũng là Đấng Trung Gian cứu độ duy nhất của của con người. Điều đó chính thánh
Phêrô đã xác quyết trước Thượng Hội Đồng Do Thái năm xưa: “ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không
có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh
đó mà được cứu độ." (Cv 4,12).
Theo kế hoạch cứu độ, thánh hóa chúng ta,
Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta ngang qua ân sủng trong việc thông dự vào kế hoạch
đó, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành sẵn cho con người từ muôn thủa xa xăm.
Ngang qua Đức Giêsu Kitô, kế hoạch cứu độ nhân loại được thành toàn. Thánh
Phaolo đã nhấn mạnh điều này trong thư Êphêsô: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước
thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người.
Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban
tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu.” (Eph. 1:4-6). Đức Kitô đã tái thiết lập kế hoạch cứu độ, kế
hoạch mà ban đầu bị phá hủy bởi Adam. Kế hoạch cứu độ đó là: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được
biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của
Người mà chúng ta được sống.” (1 Ga 4:9).
Do đó, điều quan trọng hàng đầu của mọi Kitô
hữu là sống rập đời mình theo khuôn mẫu đời sống Đức Giêsu Kitô, hiệp nhất với
Ngài luôn mãi, điều mà thánh Phaolô đã khuyên mời chúng ta: “đồng hình đồng dạng với Người” (Pl 3,10;
Rm 8,29). Để mô tả sự thật thẳm sâu của sự hiệp nhất trên, thánh nhân tiếp tục
diễn nghĩa: “nếu chúng ta cùng chết với
Người, chúng ta sẽ cùng sống với Người” (2 Tm 2,11), và chỗ khác, ngài nhấn
mạnh hơn: “Vì được dìm vào trong cái chết
của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã
được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta
cũng được sống một đời sống mới.”(Rm 6,4), sau cùng “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô
Giê-su trên cõi trời” (Ep 2,6).
Việc nhận ra ân sủng nhưng không của Đức
Giêsu Kitô, ân sủng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho chúng ta là điều cần thiết
hơn bao giờ hết, bởi nhờ sự chân nhận đó chúng ta sẽ sống như thế nào cho chính
đáng và phải đạo. Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta trong thư Êphêsô: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người
đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng
rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep
1,5-6).
Vì thế, Đức Kitô là con đường duy nhất để con
người có thể đến với Chúa Cha. Ngang qua Ngài, chỉ một mình Ngài, chúng ta có
thể đạt được lý tưởng được tiền định nởi Thiên Chúa ngay từ buổi ban sơ tạo dựng,
trong sự cứu chuộc và thánh hóa nhân loại. Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta trong mỗi
khi cử hành thánh lễ, chủ tể thường đọc: “chính nhờ Người, với Người và trong Người mà
mọi danh dự và vinh quang đều quy về Thiên Chúa Cha trong sự hiệp nhất của Chúa
Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời”. Nhiều vị thánh đã được soi sáng bởi
Thiên Chúa để hiểu rõ hơn về mầu nhiệm của Đức Kitô, các ngài mong muốn được
hòa tan, được nên một trong Đức Kitô. Khát khao này được thánh Phaolô mô tả: “tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà
là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20).
1.3 Đức
Giêsu là Sự Thật.
“Tôi sinh ra và đến thế gian để làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Đức Kitô là Ngôi Lời Nhập
Thể, thông qua nhân tính được thánh hóa của Ngài, Ngài đã thông truyền cho
chúng ta tất cả mọi kho tàng của sự khôn ngoan và tri hiểu. Ngài là kiểu mẫu
hoàn hảo của con người mà Chúa Cha đã dựng nên. Do đó, người Kitô hữu cần theo
mô mẫu này (là Đức Giêsu) để sống cuộc đời mình. Lý do, vì chúng ta được mời gọi
trở nên con cái của Thiên Chúa, mà trong đó Đức Giêsu Kitô là trưởng tử, trưởng
tử giữa những đàn em đông đúc (Rm 8,29). Đây là chân lý hiển hiện, là sự thật
thực thụ. Thật diễm phúc cho chúng ta khi được làm con cái Thiên Chúa, như Đức
Giêsu đã nói với chúng ta: "Thầy lên
cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là
Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17)
Đức Giêsu Kitô đã
tuyên bố, Ngài là sự thật, và sự thật đó sẽ giải phóng mọi người, sự thật đó sẽ
làm cho mọi người được tư do thực sự và hoàn toàn (Ga 8,32). Đức Kitô là sự thật
trong ý nghĩa Ngài là Thầy của chúng ta, nơi Ngài mọi sự thật được tỏ bày minh
nhiên và chính Ngài cũng là một sự thật. Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã nói những
lời tâm huyết, trần tình:"vì con đã
ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng
con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con. " (Ga 20,17).
Có thể nói tất cả
giáo lý của Đức Kitô từ Những Bài Giảng Trên Núi đến Bảy Lời Sau Cùng, chúng được
hướng tới một mục tiêu, một đích điểm duy nhất đó là: sự toàn hảo của đời sống
ân sủng và đức ái. Thật vậy, những lời của Đức Giêsu là Lời trao ban sự sống. Cứ
nhìn vào cuộc đời của Ngài chúng ta sẽ thấy được điều đó. Trong Tin Mừng đã thuật
lại, Ngài đi đến đâu là thi ân giáng phúc tới đó, chữa lành cho tất cả mọi người:…
người chết sống lại, người mù được thấy, kẻ què được đi người cùi được sạch, kè
điếc được nghe, người nghèo được nghe Tin Mừng… (Mt 11,5). Đúng như vậy, chính
thánh Phêrô đã tuyên tín khi Đức Giêsu quay lại hỏi các ông: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi
hay sao? "Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì
chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."
(Ga 6,67-68).
1.4 Đức Giêsu
là Sự Sống.
Đức
Kitô là sự sống của chúng ta trong 3 con đường khác nhau[3]: như
cứu cánh xứng đáng (as meritorious cause),
Ngài thông chứa cho chúng ta ân sủng đó là đời sống tinh thần ; như cứu cánh hiệu năng (as efficient cause),
Ngài là nguồn mạch của ân sủng ; như là Đầu của Thân Thể Mầu Nhiệm, Ngài thông truyền sự sống cho các chi
thể.
1.4.1
Cứu Cánh Xứng
Đáng (meritorious cause)
Giá
chuộc của Đức Kitô trong mối liên hệ đến chúng ta được phát khởi từ sự hy sinh
cứu chuộc từ cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Nói một cách chung, Thiên Chúa
có thể hoàn toàn tự do để tha thứ tội của Adam, nhưng Ngài cần đến sự thánh hóa
hoàn toàn, và điều này là khả dĩ chỉ ngang qua khí cụ của Nhân vị thánh, Đấng
là cầu nối khoảng cách vô tận giữa con người và Thiên Chúa. Sự xúc phạm của tội
được đo lường trong những hạn từ của một người xúc phạm đến Thiên Chúa, và đó
là lý do tại sao cần sự thánh hóa con người và chúng không bao giờ đủ như là sự
đền tội.
Khi
Ngôi Lời hóa nên nhục thể trong nhân vị của Đức Kitô, một bản thể con người và
một hữu thể thánh được nhiệm kết trong Ngôi Vị là Ngôi Lời. Và dù hành động nhỏ
nhoi nhất được thực hiện ngang qua Ngôi Lời Nhập Thể cũng có thể cứu chuộc được
nhân loại, Chúa Cha đã muốn nhân loại được cứu chuộc ngang qua cuộc khổ nạn và
sự chết của Đức Kitô. Hệ quả là hành động hy sinh của Đức Kitô xóa giải tội lỗi
và vượt xa những đòi hỏi của sự công bình ngay thẳng. Vì vậy, giá chuộc của Đức
Kitô chịu đóng đinh là vô tận, phong nhiêu và thặng dư (infinite and
superabundant).
Đây là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta, vì Đức Kitô đã chết cho chúng ta,
nên chúng ta sẽ được hưởng sự cứu độ từ nơi Ngài. Ân sủng này được trao ban cho
nhân loại cho đến tận cùng thế giới. Đây chính là chiều kích thần học về sự sống
vĩnh cửu của nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tuyên bố: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga
11,25).
1.4.2
Cứu Cánh Hiệu Năng (Efficient Cause)
Đức Giêsu
Kitô là Trung Gian, Nguồn mạch, và là Đấng Ban Phát mọi ơn lành, vì Ngài là Đấng
cứu chuộc nhân loại. Và chỉ như là Ngôi Lời cần đến sự kết hiệp với một bản chất
con người để chết vì sự cứu chuộc của chúng ta, cũng vậy, Ngôi vị thánh dùng
nhân tính thánh của Đức Kitô như là một khí cụ cho việc phong ban cho con người
đời sống siêu nhiên của ân sủng. Thánh Phaolo đã viết: Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên
Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm
phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng
tuyên xưng rằng:"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa" (Pl. 2,6-11).
Chúa
Giêsu thường mô tả chính mình như là “Con Người” để chỉ ra rằng: ngang qua nhân
vị được thánh hóa của Ngài, Ngài thực thi những công việc của sứ mạng Ngài,
Ngài giảng dạy Lời Chúa, Ngài làm những phép lạ, ngài phong ban những ân sủng
và tha thứ mọi tội lỗi, và Ngài chết cho, vì ơn cứu độ của chúng ta. Thánh Tôma
đã giải thích chức năng của nhân vị thánh như sau: để trao ban ân sủng hoặc
Chúa Thánh Thần thuộc về Đức Kitô như
Thiên Chúa, nhưng để trao ban khí cụ thuộc về Ngài như một con người, vì nhân vị
của Ngài là khí cụ của tính thánh thiêng của Ngài. Và từ đây trong nhân đức của
Ngài trong hành động của Ngài thì tốt lành và chúng là nguyên tác ân sủng trong
chúng ta xứng đáng và hiệu nghiệm.
1.4.3
Đầu của Thân Thể Mầu Nhiệm (Head
of the Mystical Body)
Thánh Phaolô nói
về cương vị đầu của Đức Kitô trên Thân Thể Mầu Nhiệm như sau: "Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô
và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là
sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn" (Ep 1,22-23). Như Đầu của thân thể,
thân thể là Hội Thánh, Đức Kitô đóng vai trò như thủ trưởng ảnh hưởng trên tất
cả mọi thành viên của thân thể.Thánh Tôma giải thích rằng : Đức Kitô là Đầu
đóng vai trò như một địa vị bộ ba trên Thân Thể Mầu Nhiệm : Một địa vị của
trật tự, của sự hoàn hảo và của quyền năng. Ngài có địa vị của trật tự vì Ngài
là trưởng tử (Rm 8,29) và Thiên Chúa "đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần
thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại,
mà cả trong thế giới tương lai"(Ep 1,21). Ngài có vị trí hoàn hảo, vì
như thánh Gioan định nghĩa: "Từ nguồn
sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác".(Ga
1,16). Do đó, Ngài có vị trí quyền năng vì sự viên mãn của Ngài mà chúng ta được
nhận lãnh tất cả.
Những đặc tính
tương tự được liệt kê bởi thánh Phaolo, khi ngài nói: "Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu
của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi
chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm
cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm
cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên
Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời"
(Cl 1,18-20).
Giáo Hội Công
Giáo dạy chúng ta về việc Đức Giêsu thiết lập 7 bí tích, chúng như những dấu chỉ
khả giác để ngang qua đó Thiên Chúa truyền thông ơn sủng cho những ai xứng
đáng. Đây chính là những nguồn mạch thiêng liêng nuôi dưỡng người Kitô hữu trên
bước đường dương thế. Quả thật, Đức Giêsu chính là sự sống cho con người, khi
Ngài trào thông chính Ngài ngang qua giá chuộc. Vấn đề còn lại nơi người Kitô hữu,
họ lãnh nhận các bí tích này với đức tin, đức tin được sống động bởi đức ái.
Thánh Phaolô đã xin cho chúng ta ơn này: "Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô
ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức
ái" (Ep 3, 17). Nhờ đức tin này, chúng ta được nuôi dưỡng, được
chữa lành cả thể xác lẫn tâm hồn (Lk 6,19). Trong nhiều dịp, Đức Kitô đã nói với
người phụ nữ đã xức dầu cho Ngài: "' Đức tin
của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an” (Lk 7:50). Nhưng Đức Kitô hôm
qua cũng như hôm nay, bây giờ và mãi mãi vẫn thế, do đó, chúng ta có thể tin tưởng
rằng nếu chúng ta đến với Ngài với lòng tin và lòng mến, chúng ta sẽ lãnh nhận
được sức mạnh chữa lành và quyền năng cứu độ được phát nguồn từ nơi Ngài.
II. Hiệp
Thông Trong Chúa Thánh Thần.
Điều
cốt yếu của đời sống Kitô hữu có thể được tóm gọn trong phát biểu này: vinh
quang của Thiên Chúa là cùng đích tối hậu, sự thánh hóa của chúng ta là cùng
đích tiệm cận, và sự sáp nhập (incorporation), nên một trong Đức Kitô là con đường
duy nhất có thể thủ đắc được hai cùng đích trên. Cách chung, mọi thứ đều phục
thuộc thiết yếu vào việc sống, tham gia vào mầu nhiệm của Đức Kitô.
Công
thức phụng vụ trong thánh lễ đã mô tả về ý nghĩa thần học của việc sáp nhập
(incorporation), nên một trong mầu nhiệm Đức Kitô đó là: “Chính nhờ Người, với
Người và trong Người mà mọi danh dự, vinh quang và uy quyền đều quy hướng về
Thiên Chúa Cha, trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần”. Diễn nghĩa của công thức
trên là vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi chính là cùng đích tuyệt đối của toàn
thể vũ hoàn được tạo dựng, cũng như sự cứu chuộc và thánh hóa nhân loại. Thế
nên, vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi được nhận ra ngang qua Đức Kitô, trong Ngài
và với Ngài. Thế nhưng, để mọi sự được viên mãn, thành toàn…điều quan trọng không
thể quên lãng hay thiếu xót ở đây đó là cần đến sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần.
2.1 Đấng
Bảo Trợ
Trước
lễ Vượt Qua, Đức Giê-su báo tin sẽ cử một Đấng Bảo Trợ khác (Đấng Bảo Vệ), đó
là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (St 1,2); Người
đã dùng "các ngôn sứ mà phán dạy" (Kinh Tin Kính Ni-xê-a
Con-tan-ti-nô-pô-li). Nay người sẽ ở với và trong các môn đệ (Ga 14,17) để dạy
bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến "sự
thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mặc khải như một ngôi
vị Thiên Chúa, khác với Đức Giê-su và với Chúa Cha.[4]
Chúa
Giêsu trước khi về trời, Ngài đã mạc khải nhiều điều cho các tông đồ về vai trò
của Chúa Thánh Thần: “Đấng Bảo Trợ là
Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều
và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (Ga 14,26). Có
thể nói ngày lễ Ngũ Tuần là ngày khai sinh ra Giáo Hội, thời kỳ tiên khởi được
manh nha từ đây. Chúa Thánh Thần đến để kiện hảo mọi sự “đã rồi mà vẫn chưa”
nơi Đức Giêsu, nghĩa là Ngài đến để canh tân, đổi mới mặt đất này dựa theo tinh
thần, giáo huấn của Đức Giêsu năm xưa, ngay nay và cả tương lai.
Chúng ta có thể nhận thấy: nguồn gốc vĩnh cửu
của Chúa Thánh Thần được mặc khải trong sứ mạng trần thế của Đức Giêsu, “khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến
với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha,
Người sẽ làm chứng về Thầy”(Ga 15,26). (Ga 16,7). Chúa Thánh Thần được cử đến
với các tông đồ và Hội Thánh, vừa do Chúa Cha nhân danh Chúa Con, và cũng do
chính Chúa Con, một khi Người trở về bên Chúa Cha (Ga 14,26; 15,26; 16,14). Việc
cử Chúa Thánh Thần đến sau khi Đức Giêsu được tôn vinh (Ga 7,39), mặc khải một
cách viên mãn mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.”[5]
2.2 Phân
Biệt Chứ Không Tách Biệt
Một
điều quan trong khi nói về Chúa Thánh Thần đó là “phân biệt chứ không tách biệt”,
nghĩa là chúng ta phân biệt Chúa Thánh Thần là Ngôi Vị thứ ba trong Ba Ngôi
Thiên Chúa, Ngài được nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Tuy nhiên, đó
là phân biệt, chúng ta không được hiểu theo nghĩa tách biệt Ba Ngôi cách độc lập,
vì Ba Ngôi luôn ở trong nhau “Nhất Thể Tam Vị”, hoạt động cùng nhau, từ công cuộc
sáng tạo cho đến việc vận hành sự sống của vũ trụ vạn vật và cả công trình cứu
chuộc con người[6].
Chúa
Cha đã ban Thánh Thần của Con Một Người đến trong lòng chúng ta. Thánh Thần (Gl
4.6) thực sự là Thiên Chúa. Đồng bản thể với Chúa Cha và Chúa Con, Người không
tách rời khỏi Chúa Cha và Chúa Con, trong đời sống thâm sâu của Ba Ngôi cũng
như trong hồng ân yêu thương của Ba Ngôi dành cho thế giới. Nhưng khi tôn thờ
Ba Ngôi Thiên Chúa ban sự sống, đồng bản thể và không thể phân ly, Hội Thánh
cũng tuyên xưng Ba Ngôi phân biệt nhau. Khi Chúa Cha cử Lời của Người đến với
chúng ta, Người luôn luôn gởi đến "Hơi Thở" của Người: một sứ mạng phối
hợp trong đó Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt, nhưng không tách rời nhau.
Chúa Ki-tô xuất hiện, Người là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình, nhưng
chính Thánh Thần mặc khải Chúa Ki-tô cho chúng ta.[7]
Tính
hiệp thông trong Chúa Thánh Thần của Hai Ngôi Vị kia (Chúa Cha và Chúa Con) là
không thể tách biệt. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Thánh
Phaolô mạnh dạn tuyên tín: "Nếu
không được Thánh Thần giúp sức cho, không ai có thể nói rằng: Giêsu là Đức
Chúa!" (1Cr 12,3). Muốn tiếp xúc với Đức Kitô, trước hết phải được
Thánh Thần cảm hóa. Chính Chúa Thánh Thần đến gặp gỡ và khơi động đức tin nơi
chúng ta. Nhờ Đức tin chúng ta tin yêu, nhận biết Đức Giêsu và ngang qua Đức
Giêsu chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha, vì Chúa Giêsu đã từng nói: “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).
Tựu
chung, chúng ta nhận thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa trong
công trình sáng tạo, cách riêng trong việc mạc khải và liên hệ với con người.
Thánh Gioan tông đồ đã diễn giải: "Thiên
Chúa đã sai Thánh Thần của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên:
"Abba, Cha ơi!" (Ga 4,6). Nhận thức đức tin này chỉ có thể có được
trong Thánh Thần. Thánh Irênê còn nêu lên quan điểm của mình về vai trò của
Chúa Thánh Thần trong mối liên hệ mật thiết của Ba Ngôi cũng như trong sự hiệp
thông của con người với Ba Ngôi chí thánh đó, nhận định đó như sau: “những ai
mang trong lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, họ được dẫn đến với Ngôi Lời, nghĩa
là Ngôi Con; Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự sống bất
diệt. Vậy không có Thánh Thần thì không thể thấy Con Thiên Chúa; không có Chúa
Con, không ai có thể đến gần Chúa Cha, vì chỉ có Chúa Con nhận biết Chúa Cha,
và nhận biết Chúa Con là nhờ Chúa Thánh Thần (Thánh Irênê, trình bày đức tin
tông truyền 7).
2.3 Đấng
Mạc Khải Tiệm Tiến
Cựu
Ước công bố tỏ tường về Chúa Cha, chưa rõ nét về Chúa Con. Tân Ước trình bày về
Chúa Con, và cho thoáng thấy thiên tính của Chúa Thánh Thần. Bây giờ, Chúa
Thánh Thần đang ở giữa chúng ta và giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Người. Có thể
nói : thật là thiếu khôn ngoan khi chưa tuyên xưng Chúa Cha là Thiên Chúa, lại
công bố rõ ràng về Chúa Con; khi chưa chấp nhận Chúa Con là Thiên Chúa lại nói
thêm về Chúa Thánh Thần. Ánh sáng của mầu nhiệm Ba Ngôi ngày càng thêm rạng rỡ
nhờ những mặc khải tiệm tiến "từ vinh quang này đến vinh quang khác"
(Thánh Ghêgôriô Nadien).
Chúa
Thánh Thần mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa, biết Đức Kitô là Ngôi Lời hằng
sống, nhưng Thánh Thần lại không nói về mình. Thánh Thần đã "dùng các ngôn
sứ mà phán dạy", để giúp chúng ta nghe được lời của Chúa Cha. Nhưng còn
chính Người, chúng ta lại không nghe tiếng Người, chúng ta chỉ nhận biết Người
qua việc Người mặc khải và chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận Ngôi Lời bằng đức
tin. Thánh Thần Chân Lý "vén màn cho ta thấy" Đức Kitô, nhưng "không nói điều gì về mình" (Ga
16,13). Một kiểu xóa mình như vậy, đúng là phong cách của Thiên Chúa, giải
thích tại sao, "thế gian không thể
đón nhận Người, vì thế gian không thấy và không biết Người", còn những
ai tin vào Đức Kitô thì biết Người vì Người ở lại với họ (Ga 14,17).[8]
2.4 Hiệp
Thông Trong Chúa Thánh Thần
Hội
Thánh nhận ra sự vai trò hiệp thông sống động của Chúa Thánh Thần trong nhiệm cục
cứu độ nên đã xác tín: Hội Thánh là nơi chúng ta nhận biết Thánh Thần[9]: trong
Thánh Kinh được Người linh hứng; Trong Thánh Truyền, mà các giáo phụ là những
chứng nhân cho mọi thời đại. Trong Huấn Quyền được Người trợ lực; Trong Phụng Vụ
Bí Tích mà qua các lời nói và biểu tượng, Thánh Thần giúp chúng ta hiệp thông với
Đức Ki-tô; Trong kinh nguyện, lúc Người chuyển cầu cho chúng ta; Trong các đặc
sủng và thừa tác vụ xây dựng Hội Thánh; Trong các dấu chỉ của đời sống tông đồ
và thừa sai; Trong chứng từ của các thánh nơi Người biểu lộ sự thánh thiện của
Người và tiếp tục công trình cứu độ.
Chúng
ta tiếp tục thấy vai trò hiệp thông của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội ngang
qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Thanh Tẩy, giúp con người được tái sinh
trong sự sống mới, sự sống là con cái Thiên Chúa. Thật vậy, bởi vì tội đã làm
cho chúng ta phải chết hoặc ít nữa là bị tổn thương, nên hiệu quả đầu tiên của
hồng ân Tình Yêu là ơn tha tội. Chính ơn hiệp thông của Thánh Thần (2 Cr 13,13)
trong Hội Thánh, làm cho những người lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy lại được nên
"giống Thiên Chúa", điều họ đã mất vì tội.
Sự
hiệp thông của Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta trở thành con cái đích thực của
Thiên Chúa, nhờ sống theo Thần Khí tác động (Rm 8), đời sống chúng ta sẽ trổ
sinh "hoa quả của Thánh Thần là bác
ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết
độ" (Gl 5,22-23). Nói tóm lại, "Thánh Thần là sự sống của chúng
ta"; chúng ta càng từ bỏ ý riêng (x. Mt 16,24-26), "Thánh Thần càng hướng dẫn đời ta" (Gl
5,25).
Thánh
Baxiliô khi bàn về Chúa Thánh Thần, ngài đã đưa ra nhận định sau: “Nhờ hiệp
thông với Thánh Thần, chúng ta trở nên người của Thánh Thần, được đưa trở lại Địa
Đàng, được dẫn vào Nước Trời và tình nghĩa tử, được ban cho lòng tin tưởng để gọi
Thiên Chúa là Cha, để thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, để được gọi là con
cái sự sáng và dự phần vào vinh quang đời đời. Đó là nguồn hạnh phúc khôn tả của
chúng ta, những người con cái của Thiên Chúa. Tóm lại, mọi sự đều cần đến sự hiệp
thông của Chúa Thánh Thần, Đấng đã, đang và sẽ hoạt động âm thầm, sống động
trong mỗi chúng ta.
Kết Luận
Chúng
ta đã qua các đề mục trên với việc giải thích, làm rõ về cách thức gặp gỡ Thiên
Chúa ngang qua Chúa Con và trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần. Tất cả đều
là trọng yếu, thế nhưng điểm nổi bật hơn cả đó là tình yêu của Thiên Chúa đối với
con người. Chính vì tình yêu mà Thiên Chúa đã dựng nên, đã “đi bước trước” đến
với con người, mạc khải và thông bày mọi sự cho con người. Do đó, niềm hạnh
phúc lớn lao nhất của con người là được tìm kiếm Thiên Chúa để sống cùng, sống
trong và sống với Thiên Chúa.
"Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga
4,8.16) và Tình Yêu là hồng ân tuyệt diệu chứa đựng tất cả các ơn khác. Tình
yêu này "Thiên Chúa đã đổ vào lòng
chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5), để nhờ
đó chúng ta được hiệp nhất trong Đức Kitô, và không ai có thể tách lìa chúng ta
khỏi tình yêu Đức Kitô. Thánh Phaolo đã diễn tả này: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần
hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời
cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa
chúng ta”. (Rm 8,38-39).
Là
con cái Thiên Chúa, chúng ta có quyền tự hào, có quyền được hưởng hạnh phúc mà
Thiên Chúa đã dành sẵn cho những kẻ Ngài yêu thương, tuyển chọn (Kh 17,14; 1Pr
2,9; Rm 11,5). Đây là danh dự, là ân sủng nhưng không của chúng ta, do đó, bổn
phận của mỗi người chúng ta không gì khác hơn là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng cần hướng
mọi tư tưởng, lời nói, và việc làm về cùng đích vì đó mà chúng ta được dựng nên
đó là vinh quang Thiên Chúa. Bởi vì: ngang
qua Đức Giêsu Kitô mà mọi danh dự, uy
quyền và vinh quang đều quy hướng về Thiên Chúa là Cha trong Đức Kitô và sự hiệp
thông bởi Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời.
[1]
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số
1.
[2]
Nt. Số 240
[3]
Tham khảo sách: Spiritual Theology,của Fr. Jordan
Aumann O.P, đề mục: Our Life in Christ and Mary,tr.48
[4]
Sách GLHTCG, số 243.
[5]
Nt. Số 244
[6]
Tham khảo sách GLHTCG, số 686
[7]
Nt số 689
[8]
Nt, số 687.
[9] Nt, số 688.
0 Comments:
Không cho phép có nhận xét mới.