Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 18 tháng 12, 2023

Từ Phương Pháp Giảm Trừ (Epoché) Đến Khái Niệm “Ý Hướng Tính” (Intentionality) Trong Hiện Tượng Học Của Edmund Husserl

 


Từ Phương Pháp Giảm Trừ (Epoché) Đến Khái Niệm “Ý Hướng Tính” (Intentionality) Trong Hiện Tượng Học Của Edmund Husserl

Bộ môn: Triết Học Hiện Đại

Học viên thực hiện: Nguyễn Minh Đức, S.J.

 Giáo sư hướng dẫn: Trương Trọng Hiếu, PhD

 

Tháng 11 năm 2023


Abstract: Mục đích chính của bài viết này là phân tích về khái niệm “ý hướng tính” (intentionality) trong hiện tượng luận của Edmund Husserl. Trước hết là khởi đi từ phương pháp giảm trừ (epoché), sau là những khái lược về ý hướng tính cùng cấu trúc nội tại của nó, trong đó bao gồm những phân tích về hai thành tố quan yếu noema noesis, cả hai cấu thành nên bản chất của ý hướng tính trong hiện tượng học theo E. Husserl. Cuối cùng là một vài ghi nhận cá nhân về hiện tượng học của E. Husserl cùng những vấn đề liên quan ở trên.

Key words: phương pháp giảm trừ (epoché) ý thức, đối tượng, ý hướng tính, noema, noesis, E. Husserl


 

Dẫn nhập

Hiện tượng học (phenomenology) bao gồm hai phần: hiện tượng (phenomenon) và học (logos).  Từ ‘hiện tượng’ trong trong tiếng Hi Lạp là φαινόμενον. Từ này được phát sinh từ động từ fswomenon, nghĩa là ‘hiển thị tự thân’. Vì vậy, “hiện tượng đây muốn nói về những cái có thể tự nó hiển thị về những gì thuộc về bản thân nó.[i] Còn chữ học (logos) có nghĩa là làm cho người khác hiểu điều được nói về. Vì thế, trong hiện tượng học, hiện tượng trở thành đối tượng để con người suy nghĩ và thảo luận. Thực tế, hiện tượng học là một trong những trường phái triết học ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ XX, và là bước đi mới trong nền triết học hiện đại. Triết gia Edmund Husserl (1859-1938) đã xem “hiện tượng học như một ngành triết học mang tính khoa học nghiêm ngặt (a rigorously sicentific philosophy)”[ii] và “hiện tượng học ấy hoàn toàn đứng trên nền tảng của chính nó.”[iii] Đồng thời, chính Maurice Merleau-Ponty khẳng định rằng: “nếu một người muốn đi sâu vào hiện tượng học, thì không thể không am tường phương pháp đặc thù của nó”[iv] Với tư cách là một triết thuyết mới và đặc biệt với phương pháp triết học mới, hiện tượng học nổi tiếng là khởi đi từ phương pháp giảm trừ (epoché).

Dĩ nhiên, không phải đến thời E. Husserl người ta mới bắt đầu chú tâm nghiên cứu về hiện tượng học. Trước đó, vào thời cổ đại, các triết gia tiền Socrates, họ đã quan sát các hiện tượng tự nhiên và tìm ra bốn nguyên tố căn bản cấu thành nên vũ trụ là: đất, nước, khí và lửa. Tuy nhiên, đến thời của Plato, ông phân biệt rõ ràng giữa hiện tượng và ý niệm, nghĩa là muốn biết hiện tượng thì phải dùng ý niệm để quy về và diễn tả chúng và ông phân biệt sự vật trong hai thế giới khác nhau (form and matter). Thế nhưng, Aristotle có cái nhìn khác Plato, ông xác định rõ ràng nơi chính sự vật, cái gì là bản chất (substance) và cái gì là thuộc tính (attribute) và nó được nhận diện qua mười phạm trù (categories) khác nhau.

Đến thời cận đại, khi mà tri thức khoa học phát triển kéo theo nhiều vấn đề mới phát sinh, người ta đặt vấn đề là làm sao dung hòa giữa tính phổ quát và tất yếu theo quan điểm duy lý và việc luôn luôn xuất hiện cái mới theo quan điểm duy nghiệm. Immanuel Kant (1724-1804) đã dùng phạm trù tiên thiên tổng hợp (synthesis priori) để minh giải vấn nạn trên. Bởi theo I. Kant thì có mối liên hệ giữa kinh nghiệm và cấu trúc nội tại của con người. Do đó, những sự vật mà con người có thể kinh nghiệm được qua các phạm trù tiên thiên chính là hiện tượng, còn những gì nằm ngoài khả năng nhận thức của con người đó là vật tự thân. Và đối với I. Kant, chỉ có hiện tượng mới có ý nghĩa nhận thức luận thực sự. Chính vì lý do đó, mà E. Husserl đã khen ngợi I. Kant như là “người phát kiến đầu tiên trong lịch sử hiện tượng học.”[v]

Tiếp đến, khi Hegel bàn luận về hiện tượng học, ông coi đó là hình thái học tinh thần với đặc trưng lịch sử của nó. Nghĩa là, hiện tượng học của Hegel mô tả quá trình vận động biện chứng của tinh thần. Trong đó, tinh thần tự giới thiệu về mình, tự chuyển hóa thành khách thể đối lập với chính mình; sau đó lại phủ định sự chuyển hóa đó để làm cho khách thể và chủ thể tự đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, phải nhờ đến E. Husserl thì hiện tượng học mới có trật tự và hệ thống khoa học cách chặt chẽ và có lập trường trái ngược với chủ nghĩa tự nhiên theo cái nhìn truyền thống, từ đó hình thành nên cái gọi là ‘thái đ hiện tượng học’. Thật vậy, thái đ của chủ nghĩa tự nhiên là tiếp thu không điều kiện thế giới bên ngoài và quy luật nhân quả, đồng thời ra sức ‘tự nhiên hóa’ thế giới ý thức của con người. Do đó, con người luôn trong trạng thái tiếp thu bị động, nghĩa là bên ngoài xảy ra điều gì thì con người phản ánh lại như vậy và có kinh nghiệm tri giác về cái đó. Trái lại, hiện tượng học coi kinh nghiệm tri giác là đối tượng khảo sát. Nói cách khác, thái đ hiện tượng học trước hết chú ý phản tỉnh chính kinh nghiệm. Điều này đòi hỏi “hiện tượng học hoài nghi thế giới khách quan, gác thế giới này sang một bên đ đạt tới lĩnh vực ý thức thuần túy.”[vi] Điều đó được E. Huserl trình bày trong phương pháp giảm trừ (epoché).

I.     Phương pháp giảm trừ (epoché)

Chính E. Husserl đã từng bước tiến hành giảm trừ triết học (philosophical reduction) và giảm trừ tri thức luận (epistemological reduction), rồi đi sâu vào trọng tâm của hiện tượng học qua giảm trừ hiện tượng học (phenomenological reduction). Thật vậy, “giảm trừ hiện tượng học cho ta thấy tính chất hiện tượng của đối tượng và gác lại (epoché) mọi sự siêu việt.”[vii] Thật vậy, hiện tượng học của E. Husserl là triết học có hệ thống, nó tiến triển dần dần theo nhiều giai đoạn. Khi mới bắt đầu, Husserl không nói đến hiện tượng học nhưng bàn đến logic học và toán học. Kế đến, ông phát triển một hình thức hiện tượng học thời kì đầu, chủ yếu tập trung vào lý thuyết nhận thức. Sau đó, ông chuyển sang một quan niệm về hiện tượng học như một cơ sở phổ quát cho triết học và khoa học. Cuối cùng, ông bước vào giai đoạn của ý tưởng thế giới-sự sống; ý tưởng này trở thành chủ đề nổi bật trong hiện tượng học.

Nhìn lại quá trình hình thành nên phương pháp giảm trừ trong hiện tượng học của E. Husserl, ta thấy chắc hẳn ông đã chịu ảnh hưởng nhiều bởi thời đại lúc bấy giờ. Thật vậy, E. Husserl đã sống trong thời đại phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật và từng chứng kiến những thành tựu trổi vượt như Định Luật Chuyển Động và Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn của Issaac Newton (1643-1727); cũng như thuyết Tương Đối Hẹp (special relativity) và Thuyết tương đối rộng (general relativity) của Albert Einstein (1879-1955). Về mặt sinh học, ông cũng thấy sự phát triển mạnh mẽ từ học thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin (1809-1882). Về phương diện triết học, giới tri thức mộ mến và đề cao triết học nhận thức và phê phán của I. Kant với sự phong phú của mười hai phạm trù…

Dường như, người đương thời lúc đó cảm nhận thấy mọi sự đều có thể được minh giải dưới nhãn quan khoa học thực nghiệm. Theo đó, khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên như là những thước đo của nhận thức cùng là tiêu chuẩn đánh giá mọi sự vật, hiện tượng cách khách quan và chính xác. Đồng thời, những nhận thức hay kinh nghiệm như là “nhãn quan ngôi thứ ba” mà khoa học trợ giúp con người. Tuy nhiên, E. Husserl không đồng ý với những quan niệm trên. Ông muốn chính chủ thể kinh nghiệm về đối tượng, sự vật đó, từ nhãn quan ngôi thứ nhất một cách trực tiếp, theo kiểu để chính sự vật tỏ ra cho ta như bản chất chúng là. Do đó, E. Husserl lập đi lập lại châm ngôn của mình trong nghiên cứu hiện tượng học là “hãy trở về với bản thân của chính sự vật” (return to the things themselves).[viii]

Khi trở về với chính bản thân của sự vật, hiện tượng học cần có thái độ hoài nghi, nghĩa là không dễ dàng đồng thuận, thỏa mãn với những gì người khác nói. Do đó, với phương pháp giảm trừ (epoché), E. Husserl loại bỏ những tri thức trước đó thuần túy chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên hay quy luật nhân quả. Thái độ hoài nghi của hiện tượng học là ‘tạm gác’ sang một bên, là tạm để những tiên kiên, định kiến… vào trong ngoặc, như E. Husserl đã khẳng định: “chúng ta đặt nó bên ngoài hành động của chúng ta, chúng ta không kết nối với nó, chúng ta đóng khung nó.”[ix] Để rồi chính chủ thể truy tìm đối tượng đó bằng kinh nghiệm trực tiếp của mình và được chính sự vật, hiện tượng hiển lộ và trình tỏ bản chất đích thực của nó. E. Husserl nhận định rằng: “sự tra vấn của chúng ta nên hướng về điều đang được ban tặng từ thực tại (the giveness of reality).”[x]

Đồng thời, E. Husserl cũng muốn cách nghiên cứu về hiện tượng học phải độc lập, nghĩa là: “Tôi tách biệt chúng hoàn toàn. Tôi không sử dụng những tiêu chuẩn của chúng. Tôi không ưu tiên bất kỳ một giả định nào cho dù giá trị minh chứng rõ ràng đến đâu. Tôi không sử dụng bất kỳ tiền đề nào để làm nền tảng kinh nghiệm của tôi.”[xi] Cũng vấn đề này, trong tác phẩm Ý Niệm Hiện Tượng Học – Năm Bài Giảng Về Hiện Tượng Học, E. Husserl nhấn mạnh: “Khi bắt đầu phê phán nhận thức thì toàn bộ thế giới, thế giới tự nhiên vật lý và tâm lý, kể cả cái bản ngã của chính mình, cùng với mọi ngành khoa học có quan hệ với những đối tượng khách quan này, đều phải được đưa vào danh mục những điều khả vấn.”[xii]

Bên cạnh đó, khi đào sâu về hiện tượng học, E. Husserl cho rằng: “ngang qua việc giảm trừ hiện tượng học (phenomenology epoché), tôi giảm trừ cái tôi con người tự nhiên của mình (my natural human Ego) và đời sống tâm lý của tôi (my psychic life) vào trong cái tôi hiện tượng học siêu nghiệm của mình.”[xiii] Có thể nói, phương pháp giảm trừ (epoché), là một phương pháp tận căn và phổ quát, mà qua đó E. Husserl tiếp cận được chính mình và sự vật một cách thuần túy, như ông đã khẳng định: “tôi như là một cái tôi (ego) và đi vào trong lãnh vực ý thức thuần túy của tôi, chính ở nơi đó và trong đó mà đối tượng tỏ ra cho tôi như chính nó là”.[xiv]

Nói tóm lại, phương pháp giảm trừ (epoché) là một sự thay đổi thái độ để hướng về thực tại, chứ không loại trừ thực tại. Thật vậy, E. Huserl nhấn mạnh: “giống như cái được chứa đựng nằm trong cái chứa đựng. Cũng vậy, những “tiền kiến” vẫn có đó, nhưng chúng ta không sử dụng chúng.”[xv] Kết quả là, “ngang qua epoché, một cách thức kinh nghiệm mới, một cách thức suy tư mới về thực tại được mở ra cho tôi.”[xvi] Chính phương pháp giảm trừ (epoché) giúp E. Huserl vượt qua thái độ tự nhiên ngây ngô (the naïve natural attitude) – một thái độ dễ dàng chấp nhận và thỏa mãn với tri thức nghe nói hay tri thức giáo điều chủ quan để đi đến một thái độ triết học (the theoretical/philosophical attitude).  Do đó, E. Husserl đã dùng phương pháp giảm trừ triết học để đi sâu vào nghiên cứu hiện tượng học và từng bước làm rõ ý thức thuần túy, với cấu trúc kinh nghiệm của chủ thể ngang qua ý hướng tính. Chúng ta cùng tìm hiểu sâu kỹ hơn về ý thức thuần tùy qua phân tích về khái niệm ý hướng tính trong các đề mục dưới đây.

II. Sơ lược về ý hướng tính của ý thức

Trước nhất, có thể xem E. Husserl là người đầu tiên đặt nền móng cho triết học nghiên cứu về hiện tượng học trong thế kỷ XX. Dĩ nhiên, trước đó E. Husserl bị cuốn hút bởi ý tưởng về ý hướng tính của thầy mình là Franz Brentano (1838-1917) và phát triển nó qua hiện tượng học. Hiện tượng học là phương pháp mô tả, và E. Husserl dùng phương pháp giảm trừ (epoché) để lần tìm về bản chất và ý nghĩa sâu xa của hiện tượng học. Điều quan trong mà E. Husserl nhấn mạnh là mối tương quan mật thiết giữa ý thức và đối tượng. Thật vậy, ý hướng tính (intentionality) là mọi hành vi của con người đều hướng về một đối tượng cụ thể nào đó. Cụ thể, E. Husserl đã phát biểu rằng: “Tôi ý thức những cái tôi đã ý thức và đó là những điều tôi đã ý thức” (Ego-cogito-cogitata qua cogitata).[xvii]

Nhắc đến hạn từ ‘ego’ và ‘cogito’, ta nhớ lại phương pháp hoài nghi triệt để của Decartes với một mệnh đề điểm tựa là “tôi suy tư, nên tôi hiện hữu” (cogito ergo sum). Tuy nhiên, có lẽ vì quá chú tâm đến ý niệm ‘suy tư’ (cogito) mà Decartes xem nhẹ ý niệm ‘cái tôi’ (ego) mang tính thực hành việc suy tư cũng như “nội dung” của hành vi suy tư (cogitatum). Thực tế, không thể có được việc suy tư nếu như không có chủ thể suy tư, cùng nội dung và đối tượng được suy tư. Nghĩa là mọi hành vi suy tư của con người đều phải hướng về một đối tượng cụ thể nào đó.

Khi nghiên cứu về khái niệm ý hướng tính với công thức gồm ba thành tố “ego-cogito-cogitatum”[xviii] thì E. Husserl quan niệm, khi chủ thể thực hiện hành vi suy tư họ phải hướng về một đối tượng được suy tư một cách cụ thể, nghĩa là suy tư thì phải suy tư về cái gì đó. E. Husserl nhấn mạnh rằng: “quá trình ý thức cũng được gọi là ý hướng (intentional). Từ ngữ ý hướng tính nhắm đến đặc tính nền tảng phổ quát của ý thức: ý thức là ý thức về một điều gì đó; một cái tôi suy tư luôn mang trong mình đối tượng của chính nó.”[xix]

Hơn nữa, cũng cần nhận ra sự khác biệt về cái tôi (ego) của E. Husserl và Descartes cách cụ thể. Thật vậy, cái tôi (ego) mà E. Husserl sử dụng là kết quả của quá trình giảm trừ (epoché) như đã trình bày ở đề mục trên. Cụ thể, chính E. Husserl đã thừa nhận: “Cái tôi con người này là một sự vật ở trong thế giới, và trải nghiệm của con người này thì thuộc về thời gian khách quan. Tất cả những điều ấy đều là những cái ‘siêu việt’ và vô hiệu về mặt nhận thức luận. Chỉ khi nào thông qua sự giảm trừ hiện tượng học, thì tôi mới thủ đắc một cái gì đó được mang lại một cách tuyệt đối.”[xx]

Bên cạnh đó, đối tượng được ý hướng tính nhắm đến theo E. Husserl thì nó nằm trong địa hạt hiện tượng học với ý thức thuần túy. Chẳng hạn, khi một người ý thức về ‘cơn gió’ mát thoảng qua mặt họ. ‘Cơn gió’ thực hữu được xem là siêu việt sau khi thực hiện phương pháp giảm trừ hiện tượng học. Đồng thời, nơi ý thức thuần túy của người đó xuất hiện ‘cơn gió’, họ cảm nhận dòng không khí di chuyển, dĩ nhiên, có thể họ không thấy rõ ‘cơn gió’ cụ thể nhưng cảm nhận rất rõ về điều đó, và họ cũng chẳng cần đến khái niệm gió như: ‘hiện tượng đối lưu khi không khí chuyển động trên quy mô lớn từ khí áp cao về khu khí áp thấp…’ như khoa học vật lý định nghĩa. Đối tượng ‘cơn gió’ đó có thể được người đó ý thức theo một dòng suy tư liên tục và tự ‘cơn gió’ đó sẽ tỏ lộ chính nó cho đối tượng suy tư về nó. Với E. Husserl thì “đối tượng được nhận thức này, hay cái cogitatio này là thực sự được mang lại một cách hiển nhiên, xuất hiện và trôi chảy trong dòng chảy của ý thức.”[xxi]

Tuy nhiên, quan niệm về ý thức trong hiện tượng học của E. Husserl thì không hoàn toàn giống với quan niệm về ý thức của Brentano và I. Kant. Để thấy rõ hơn về những khác biệt đó, thiết tưởng ta cùng phân tích chúng trong các đề mục đưới đây.

2.1 Khác biệt về nội hàm của khái niệm ý thức giữa E. Husserl với I. Kant và Brentano

Rõ ràng có một sự khác biệt ở đây giữa phát biểu về ý thức của E. Husserl và I. Kant. Với I. Kant, ông cho rằng ‘ý thức bao giờ cũng là ý thức về cái gì đó’ và I. Kant khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa ý thức và đối tượng được ý thức qua phát biểu: “những tư tưởng không có nội dung thì trống rỗng, những trực quan không có khái niệm thì mù quáng.”[xxii] Điều đó có nghĩa là I. Kant muốn ám chỉ rằng ta không thể nghĩ mà không nghĩ về một cái gì đó, không có tri giác bên trong nếu không có cái bên ngoài. Có lẽ điều mà I. Kant muốn nhắm đến là tương quan giữa ý thức với một đối tượng khả hữu (vì theo Kant, con người có sẵn những phạm trù làm khuôn mẫu ý thức về sự vật ngay cả khi chưa gặp sự vật đó).

Về phần mình, E. Husserl nhắm đến và nhấn mạnh về tính sự kiện, tức kinh nghiệm đã trải qua của chúng ta, đó là ý thức duy nhất mà ta có thể có về thế giới. Trong khi I. Kant và các triết gia duy tâm cho rằng con người có ý thức và quan niệm trước khi tiếp xúc, gặp gỡ với thế giới. Thực sự, theo E. Husserl thì ý thức của con người hướng về và mở ra với thế giới đ thế giới tự bày tỏ cho ta điều đúng như nó là chứ không phải như điều mà ta mong muốn hay chờ đợi. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao cùng một đối tượng lại có thể dẫn đến nhiều quan niệm khác nhau. E. Husserl cho rằng ý hướng tính trong ý thức của con người được thành hình cùng với đối tượng, chứ không phải đối tượng bên ngoài quy định ý thức của con người về bản thân đối tượng đó. Do vậy, không một ý thức nào có thể thiếu đối tượng. Nói cách khác, ý thức luôn phải là ý thức về một đối tượng nào đó. “Vì vậy, mọi ý hướng đều là sự ý thức về đối tượng; hiện tượng tâm lý là hiện tượng có ý hướng bao hàm đối tượng vào tự thân nó (ý hướng).”[xxiii]

Bên cạnh đó, thầy của E. Husserl là Brentano đã cho rằng: “mọi ý hướng đều là ý thức về đối tượng. Ngoài ra, đối tượng’, ‘khách thể’ hay ‘nội dung’ mà Brentano muốn nói tới là đối tượng trong ý thức chứ không phải phải vật thực tại bên ngoài. Đối tượng trong ý hướng cũng không cần lấy vật thực tại bên ngoài làm cơ sở.”[xxiv] Tuy nhiên, vì không đồng ý với quan niệm trên của thầy mình, nên trong trong tập I của quyển Nghiên Cứu Logic Học (Logical Investigation), E. Husserl đã phê phán thầy Brentano “khi đặt tâm lý học như là nền tảng của triết học. Bởi vì tâm lý học sẽ chỉ đưa đến những mệnh đề tương đối (tùy theo “liên tưởng” của riêng mỗi người, như Hume đã chỉ ra) chứ không thể có được yếu tố phổ quát và tất yếu.”[xxv]

Mặc dù, Brentano chỉ rõ chủ nghĩa tâm lý tất yếu sẽ đi đến mâu thuẫn không thể điều hòa giữa một bên là logic tất nhiên khách quan và một bên là hiện tượng tâm lý ngẫu nhiên chủ quan. Từ đó, cuối cùng nó rơi vào chủ nghĩa tương đối và thuyết hoài nghi, trên lĩnh vực lý luận nhận thức. Tuy nhiên, E. Husserl cho rằng: “logic học cần có một lĩnh vực độc lập và thuần túy. Nó không phụ thuộc chủ nghĩa kinh nghiệm và tâm lý học, không lấy quy luật tâm lý để đánh tráo quy tắc logic.”[xxvi] Do đó, theo phân tích trên của E. Husserl thì ý hướng tính xét như là quan niệm căn bản trong hiện tượng học không còn mang tính tương đối của tâm lý học nữa nhưng đã tìm được nền tảng chắc chắn trong toán học.

2.2 Bản chất đích thực của ý hướng tính theo E. Husserl

Trở lại với quan niệm ý thức của Husserl là “ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì đó.”[xxvii] Tự nơi bản chất của “ý thức,”[xxviii] nó cần hướng đến một đối tượng cụ thể. Tựa như một mũi tên bắn ra cần nhắm đến một mục tiêu nào đó, chứ không hẳn bắn tên vào không trung, hay vào hư không. Dĩ nhiên, mũi tên và mục tiêu, đích nhắm đó phải nằm trong thế giới. Bởi vì ý thức luôn có tính hướng về thế giới, dù thế giới đó chưa thành hình rõ nét khi ý hướng phóng mình về thế giới ấy. Thực tế, Husserl đã “quan tâm đến thế giới bên ngoài xuất hiện có ý hướng chứ không quan tâm đến sự hiện hữu thực tồn của nó”.[xxix]

Thực tế, hiện tượng học luôn trở lại và làm việc với chính ‘bản thân của sự việc’ như chính E. Husserl từng khẳng định là “hãy trở về với bản thân của sự việc” (return to the things themselves).[xxx] Maurice Merleau Ponty cũng đồng ý kiến với lập luận này của E. Husserl. Thật vậy, trong lời dẫn nhập cuốn Phenomenology of perception, Maurice Merleau Ponty đã viết: “công việc phải làm là mô tả, chứ không phải giải thích hoặc phân tích. Quan niệm nhất quán mà E. Husserl đặt cho hiện tượng học lúc phôi thai là phải ‘trở về chính các sự việc’.”[xxxi] Do đó, bản thân sự việc cũng bao gồm cả những hiện tượng cách thuần túy.

Trong hiện tượng học, ý hướng tính không thể hiện mối quan hệ giữa hành vi ý thức với đối tượng thực hữu cho bằng nó biểu thị mối quan hệ giữa hành vi của tâm trí (noesis) và đối tượng của ý hướng tính (noema).[xxxii] Đây chính là tính năng động của ý hướng tính, nghĩa là không chỉ dừng lại như cogito cách đơn thuần của Descartes, nhưng phải là sự kết hợp giữa ba yếu tố: ego-cogito-cogitatum (tiếng Hy lạp là subject-noesis-noema). Điều này được hiểu là yếu tố hành vi đã bao hàm trong nó đối tượng mà hành vi hướng đến và chủ thể thực hiện hành vi đứng sau đó. Điểm cần lưu ý ở đây là đối tượng không nằm ngoài ý thức, nhưng nó ở bên trong ý thức và được thiết lập bởi ý thức.

Dĩ nhiên, ý thức không đón nhận thế giới bên ngoài như kiểu con người đưa thức ăn vào cơ thể mình, đúng hơn, ý thức nó hướng về thế giới và đó như là yếu tố nền tảng để ý thức được hiện hữu trong thế giới. Chính Merleau Ponty đã khẳng định “ta phải coi thế giới như một cái gì chưa thành đối tượng nhưng nó lại là mục tiêu cho tri thức của ta.”[xxxiii] Đồng thời, Merleau Ponty giải thích thêm rằng: “tương quan giữa ta và thế giới là tương quan luôn nói lên trong ta không ngừng và con người được định nghĩa là ‘hữu-tại-thế’ (being-in-the world).”[xxxiv]

Thật vậy, hành vi ý hướng là hành động mà ở đó, chúng ta xác định nội dung ý hướng để thiết lập nên đối tượng (sự vật). Do đó, E. Husserl nghiên cứu về phương pháp hiện tượng học chủ yếu dựa vào Noema (thế giới của kinh nghiệm sống, đối tượng của hành vi tâm trí, suy tư). Vì thế, thiết tưởng cần tìm hiểu sâu kỹ hơn về hai thành tố thiết yếu không thể tách rời nhau là noesis- noema trong ý hướng tính theo E. Husserl.

III. Noesis và Noema

3.1 Noesis

Noesis (trí hoạt) là một thuật ngữ Hi Lạp với nghĩa là hành vi của tâm trí (yếu tố tinh thần, cogitatio noesis), noesis còn được gọi là tinh thần ý thức. Nó thường được E. Husser dùng để định nghĩa về một tiến trình tâm trí (mental process). Theo Husserl, tiến trình này “hoàn toàn mang ý hướng tính mà các thành tố của hành vi ý thức (noetic components) được nhấn mạnh một cách minh nhiên.”[xxxv] Trong Logical Investigations, E. Husserl giải thích kỹ lưỡng hơn về Noesis là “ Noesis không chỉ bao gồm hành vi chủ động trong hoạt động nhận thức, phẩm tính (quality) của hành động, mà còn bao gồm các hành vi ý thức khác như thỉnh cầu, hy vọng, lý tưởng, ảo tưởng, hoài nghi, hồi ức…”[xxxvi] Ngoài ra, “noesis còn có chức năng mang lại ý nghĩa và cấu tạo nên ý nghĩa cho những gì tâm trí nắm bắt.”[xxxvii]

3.2 Noema

Noema (trí kiệt) trong tiếng Hi Lạp được hiểu là cái được suy tưởng, là đối tượng của ý hướng tính (noema cogitatum, intentional object). Đó là một thuật ngữ chính yếu mà E. Husserl thường dùng để diễn giải về hiện tượng học của mình, và ông cho rằng “việc thâu nhận học thuyết về noema là một trong những điều quan trọng nhất.”[xxxviii] Noema là đối tượng được nhận thức trong ý hướng tính và “nó cũng là yếu tố then chốt trong việc miêu tả cách toàn thể về ý thức.”[xxxix] E. Husserl đưa ra hai cách giải thích về Noema. Trước hết, ông lập luận rằng: “noema đơn thuần là đối tượng ý thức; tức đối tượng ý thức có ý hướng tính trong giảm trừ hiện tượng học. Lập luận thứ hai lại cho rằng noema là một thực thể phức tạp (complex entity) bao gồm nhiều mô-men (moment) khác nhau, nhưng chúng được nối kết với nhau cách chặt chẽ.”[xl]

3.3 Tương quan giữa Noesis và Noema

Tương quan giữa noesis và noema được xem là một sự đối ứng tiên nghiệm (an apriori correlation). Đang khi đó, một số trường phái tâm lý học có xu hướng tách biệt hai thành tố trên cách độc lập để phân tích từng chiều sâu hành vi tâm lý của con người và dĩ nhiên, E. Husserl không đồng ý với quan điểm đó.[xli] Tuy nhiên, về sau này, một số tác giả đã cho rằng ngay cả chính E. Husserl cũng khá mơ hồ khi dùng các thuật ngữ liên quan đến noema để giải thích các vấn đề triết học trong các tác phẩm hậu kỳ. Thực tế, trong các tác phẩm đó, “E. Husserl thường dùng thuật ngữ “đối ứng noetic-noematic” (the noetic-noematic correlation) nhiều hơn.”[xlii]

Mặc dù bản chất của hai thành tố noesis và noema có khác nhau, nhưng chúng luôn ở trong một tương quan mật thiết, chặt chẽ, như kiểu các cấu trúc DNA siêu xoắn, nghĩa là chúng bổ sung cho nhau và không tách rời nhau. Tuy nhiên, chính sự giảm trừ hiện tượng học một cách nào đó đã làm giảm thiểu tối đa về cái tôi ý thức (cogitata), cái mà giúp chủ thể nhận thức được thực tại duy nhất của ý thức thuần túy (ý thức siêu nghiệm)- nghĩa là ý thức và đối tượng luôn đi kèm với nhau trong một thực tại duy nhất. Nếu ở phía chủ thể thì thực tại đó sẽ gọi là noesis, và nếu đứng ở phía đối tượng thì thực tại đó sẽ gọi là noema. Với sự gắn kết mang tính không thể tách rời như vậy, không thể có noesis nếu không có noema đi cùng, và ngược lại, cũng sẽ không thể có noema khi không có noesis đính kèm.

Hai thành tố noesis và noema gắn chặt với nhau đến mức cấu thành một thực tại duy nhất mà E. Husserl gọi là tương thể hay tương đồng tính (correlate). Đó là một thực tại duy nhất nhưng lưỡng diện vì có noema và noesis hiện hữu. Chính trong tính lưỡng diện đó, thực tại mang tính sống động vì tương quan mật thiết của noesis và noema như là kết cấu nền tảng và năng động của ý hướng tính. Thật vậy, “E. Husserl coi đây là hướng chỉ đạo, để phân tính kết cấu trong các lĩnh vực hoạt động của ý hướng tính của ý thức.”[xliii] Theo Maurice Merleau-Ponty, “để tránh sa vào duy tâm khi chính yếu dựa vào noesis nên E. Husserl đã dựa vào noema và lấy đó làm văn kiện để tìm hiểu.”[xliv]

Giữa noesis và noema không phải là tương quan giữa những hành vi diễn ra trong tâm trí khép kín với những đối tượng bên ngoài như Descartes quan niệm. Đúng hơn, chúng nằm trong mọi hành vi nhận thức một cách đối ứng chặt chẽ. Bởi vì, ý thức luôn có ý hướng tính ở trong đó nên ý thức luôn chứa đựng hệ thống hiện tượng, nơi đó những đối tượng, con người, sự vật, thuộc tính… đều tự trình hiện trước ý thức. Ý thức không như một chiếc bình trống rỗng để đưa các ý niệm hay các đối tượng vào trong đó. Trái lại, “ý thức là một hệ thống rất phức tạp vì nó mang yếu tố thời tính của tiến trình tâm trí (mental process), nhờ đó, những gì được mang lại của đối tượng [được nhận thức] sẽ được cấu tạo (constitute) ngang qua trực quan.”[xlv]


 

Một vài ghi nhận cá nhân

Tựu trung, khi nghiên cứu hiện tượng học, E. Husserl đã khởi đi từ phương pháp giảm trừ, nghĩa là hãy trở về với chính bản thân của sự vật và tạm gác mọi thiên kiến về nó vào trong ngoặc và để chính sự vật, đối tượng đó trình tỏ, hiện lộ như nó là. Nhờ vậy, ta mới có thể lĩnh hội ‘ý thức thuần túy’ hay đạt được ‘chủ thể siêu nghiệm’. Đồng thời, ngang qua phương pháp giảm trừ hiện tượng học, E. Husserl đã “tìm thấy ý hướng tính hướng ra ngoài chính nó đến những đối tượng (directed beyond itself).”[xlvi] Nghĩa là, ông tìm thấy mẫu thức nơi những hành động của ý thức cùng các đối tượng của những hành động đó. E. Husserl cho rằng: “mẫu thức đó là đặc tính chính yếu của kinh nghiệm ý thức (the principal characteristic of conscious experiences). Mẫu thức này được gọi là ý hướng tính, và có thể nói rằng ý thức cũng chính là ý hướng tính.”[xlvii] Vì thế, ý thức luôn hướng trực tiếp đến một đối tượng cụ thể nào đó. Thực ra, ý hướng tính chẳng qua là một cấu trúc kinh nghiệm trong trường phái hiện tượng học, là một cuôc hội ngộ giữa chủ thể đang kinh nghiệm và đối thể được kinh nghiệm một cách có ý thức thuần túy.

Hơn nữa, khi phân tích sâu kỹ về ý hướng tính, E. Husserl xem ý hướng tính như là “’sự thuộc về’ (aboutness) hay là ‘sự trực tiếp’ (directness) nơi những tình trạng của ý thức.”[xlviii] Đồng thời, ông đã định nghĩa ý hướng tính như là một đặc nét trong cách thức mà chủ thể hướng đến các khách thể tính. Do vậy, E. Husserl gọi “những hành động chủ ý (intentional acts) là những hành động khách thể hóa (objectifying acts). Bởi vì, những hành động đó có khả năng khách thể hóa hay có thể tỏ bày đối tượng với một chủ thể trong ý thức.”[xlix] Tuy nhiên, không thể không nhắc đến hai yếu tố then chốt trong ý hướng tính, theo E. Husserl là noesis và noema. Chúng là hai thành tố lưỡng diện liên kết mật thiết và chặt chẽ với nhau trong hành trình ý thức của con người. Đó cũng là cuộc gặp gỡ, giao thoa giữa chủ thể suy tư và đối tượng được suy tư.

Trong thực tế, không thể phủ nhận những đóng góp to lớn và sâu sắc của E. Husserl khi nghiên cứu về hiện tượng học, cụ thể là từng bước khởi đi từ phương pháp giảm trừ (epoché) đến ý hướng tính. Như E. Huserl từng khẳng định rằng: “chủ đề chính yếu của hiện tượng học đơn thuần là ý  hướng tính”.[l] Cùng với đó, chính những nghiên cứu về hiện tượng học của E. Husserl là nguồn gợi hứng cho các phân tích triết học của các triết gia hậu thời như M. Heidegger,[li] I. Lévinas[lii], Jean Paul Sartre[liii], Paul Ricoeur[liv] hay Merleau-Ponty[lv]

Tất nhiên, không phải ai cũng ủng hộ và đề cao hiện tượng học của E. Husserl, vì “ngay từ đầu đã có những lời chỉ trích rằng: E. Husserl đang chìm vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, trong đó, toàn bộ thế giới chỉ trở thành một bóng ma đang chuyển động của tâm trí; và E. Husserl đã phẫn nộ bác bỏ những ‘quan niệm sai lầm’ như vậy trong thời gian đầu sự nghiệp của mình.”[lvi]

Dĩ nhiên, so với những nghiên cứu khoa học và suy tư triết học trước đó, triết học hiện tượng học của E. Husserl đã là thành tựu trổi vượt. Thật vậy, hiện tượng học của E. Husserl là một bước tiến trước triết học phản tỉnh của Descartes, nó tránh được lối suy tư cực đoan (theo kiểu chủ quan của Descartes), qua việc không chỉ dừng lại ở chủ thể (cogito) nhưng còn mở ra với đối thể, khách thể khác (cogitatum). Đó là một bước tiến mang tính tổng hòa từ E. Huserl. Tuy nhiên, bước tiến đó chính là bước đệm để bước lên bước tiến khác đó là thông diễn học.

Cụ thể, chính Heidegger nhận định hiện tượng học của E. Husserl là bước ngoặt của thông diễn học. Qua đó, Dasein không bị khuyết hụt và chòng chành, nhưng được thâu nhận cách trọn vẹn và tròn đầy hơn. Nếu nhìn theo nhãn quan của Heidegger trong phần đầu của tác phẩm ‘Being and Time’, Heidegger quan niệm: “Dasein là hữu thể huyền nhiệm với một phần tỏ lộ (bởi hiện tượng học) và một phần ẩn khuất. Với phần ẩn khuất đó, nó cần đến sự thâu nhận qua con đường thông diễn học. Đó là bước ngoặt từ hiện tượng học đến thông diễn học.”[lvii]

Không chỉ là bước đệm cho thông diễn học, hiện tượng học của E. Husserl còn là cơ sở để Merleau-Ponty nỗ lực xây dựng ‘hữu thể luận hiện tượng’ (phenomenological ontology) cách đặc sắc và trung dung. Sở dĩ thái độ trung dung trong hữu thể luận hiện tượng là vì Merleau-Ponty đã tìm cách xóa bỏ phân biệt ‘nhận thức - đối thể’ qua lời giải thích từ ‘Chiasme’.[lviii]

Tóm lại, chúng ta biết ơn những thành tựu trong nghiên cứu về hiện tượng học của E. Husserl. Thật vậy, như Merleau-Ponty nhận định rằng hiện tượng học của E. Husserl giúp chúng ta: “học lại cách nhìn về thế giới.”[lix] Trong đó, điều được lưu tâm trọng yếu nhất nơi hiện tượng học của E. Husserl là cái tôi siêu việt mang tính hiện tượng học (phenomenological transcendental Ego), cái mà có thể giúp ta có được tri giác khách quan về một đối tượng. Đó là một khoa học nghiêm ngặt dựa trên chính cái tôi (ego), mà không dựa vào bất kỳ tiền giả định nào trước đó (without any kind of presupposition), đồng thời ngang qua phương pháp giảm trừ hiện tượng học siêu việt (transcendental—phenomenological epoché), ta thủ đắc những phân tích về ý hướng tính như là một thuộc tính duy nhất của ý thức để hướng về đối tượng một cách có ý hướng. Đó cũng là tất cả những nội dung cơ bản mà triết học hiện tượng học của E. Husserl trình bày cho chúng ta.


Bibliography
Husserl, Edmund. Cartesian Meditations. Translated by Dorion Cairns. The Hague: Martinus, 1960.

Husserl, Edmund. Ideas Pertaining to a Pure Phenomenology and to a Phenomenological Philosophy— First Book: General Introduction to a Pure Phenomenology. Translated by F. Kersten. The Hague: Martinus Nijhoff Publishers, 1982.

Husserl, Edmund. Ideas – General Introduction to Pure Phenomenology, trans. W. R. Boyce Gibson, New York: Collier Books, 1962.

Husserl, Edmund. Logical Investigations. Translated by J. N. Findlay. Vol. II. London: Routledge, 2001.

Husserl, Edmund. Logical Investigations. Translated by J. N. Findlay. Vol. I. London: Routledge, 2001.

Husserl, Edmund. "Phenomenology." In Encyclopædia Britannica, translated by Richard E. Palmer, London: Routledge, 1927.

Husserl, Edmund. The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology: An Introduction to Phenomenological Philosophy. Translated by David Carr. Evanston: Northwestern University Press, 1970.

Husserl, Edmund. The Phenomenology of Internal Time-Consciousness. Translated by Jame S. Churchill. The Hague: Martinus Nijhoff Publishers, 1964.

Edmund Husserl, Ideas Pertaining to a Pure Phenomenology and to a Phenomenological Philosophy—First Book: General Introduction to a Pure Phenomenology (Ideas I), F. Kersten trans. The Hague: Martinus Nijhoff Publishers, 1982.

Husserl, Edmund. Ý Niệm Hiện tượng học. Translated by Bùi Văn Nam Sơn. HCM: Trẻ, 2016.

Cohen, Dermot Moran and Joseph. The Husserl Dictionary. London: Continuum International Publishing Group, 2012.

Heidegger, Martin. Being and Time. 7th. Translated by John Macquarrie and Edward
Robinson. Oxford: Blackwell Publishers, 2001.

Hoa, Diêu Trị. Edmund Husserl. Translated by Trịnh Cư. Huế: Thuận Hóa, 2004.

Kant, Immanuent. Phê Phán Lý Tính Thuần Tuý. 2nd. Translated by Bùi Văn Nam Sơn. Hà
Nội: Văn Học, 2014.

Merleau-Ponty, Maurice. Phenomenology of Perception. Translated by Colin Smith. London:
Routledge Classics Press, 2002.

Ricoeur, Paul, A Key to Husserl’s Ideas I, Marquette University Press, 1975.

Sokolowski, Robert. Introduction to Phenomenology. Cambridge: Cambridge University
Press, 2000

Dan Zahavi, Husserl’s Phenomenology, California: Stanford University Press, 2003.

Matheson Russell, Husserl – A Guide for the Perplexed, New Yorl: Continuum International Publishing Group, 2006.

Cassara, Bruno. Religions Article: Phenomenology and Transcendence: On Openness and Metaphysics in Husserl and Heidegger, 2022.

Zuesse, Evan M.. Article: Journal of the American Academy of Religion, LIII/1, the role of intentionality in the phenomenology of religion, 2018.



[i] Diêu Trị Hoa, Edmund Husserl, Trịnh Cư chuyển dịch (Huế: Thuận hóa, 2004), 47.

[ii] Edmund Husserl, “Phenomenology,” in Encyclopædia Britannica, Richard E. Palmer trans. (London: Routledge, 1927), 77.

[iii] Edmund Husserl, The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology. Evanston: Northwestern University Press, 1970. 5.

[iv] Maurice Merleau-Ponty, Phenomenology of Perception, Colin Smith trans. (London: Routledge, 2002), 8.

[v] Diêu Trị Hoa, Edmund Husserl, Trịnh Cư chuyển dịch (Huế: Thuận hóa, 2004), 48.

[vi] Ibid, 48-49.

[vii] Edmund Husserl, Ý Niệm Hiện Tượng Học, Bùi Văn Nam Sơn trans. (Hồ Chí Minh: Trẻ, 2016), 75-76.

[viii] Edmund Husserl, Logical Investigations - Vol I, J. N. Findlay trans. (London: Routledge, 2001), 305.

[ix] Edmund Husserl, Ideas – General Introduction to Pure Phenomenology, trans. W. R. Boyce Gibson (New York: Collier Books, 1962), 98.

[x] Dan Zahavi, Husserl’s Phenomenology (California: Stanford University Press, 2003), 45.

[xi]  Edmund Hussserl, Ideas, 100.

[xii] Edmund Husserl, Ý Niệm Hiện Tượng Học, trans. Bùi Văn Nam Sơn (TP Hồ Chí Minh: NXB Trẻ, 2016), 48.

[xiii] Edmund Husserl, Cartesian Meditations – An Introduction to Phenomenology, trans. Dorion Cairns (The Hague: Martinus Nijhoff, 1960), 26.

[xiv]  Edmund Husserl, Cartesian Meditations, 21.

[xv] Edmund Hussserl, Ideas, 98.

[xvi] Dan Zahavi, Husserl’s Phenomenology, 44.

[xvii] Edmund Husserl, Cartesian Meditations, Dorion Cairns trans. (The Hague: Martinus Nijhoff Publishers, 1960), 50.

[xviii] Edmund Husserl, Cartesian Meditations, 50.

[xix] Ibid.33

[xx] Edmund Husserl, Ý Niệm Hiện Tượng Học, 75.

[xxi] Edmund Husserl, Ý Niệm Hiện Tượng Học, 127.

[xxii] Immanuel Kant (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải), Phê Phán Lý Trí Thuần Túy – tập 1, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 2014, 139.

[xxiii] Diêu Trị Hoa, Edmund Husserl, Trịnh Cư chuyển dịch (Huế: Thuận hóa, 2004), 125.

[xxiv] Ibid, 126.

[xxv] Edmund Husserl, Logical Investigations - Vol II, J. N. Findlay trans. (London: Routledge, 2001),

[xxvi] Ibid, 44.

[xxvii] Edmund Husserl, Ideas Pertaining to a Pure Phenomenology and to a Phenomenological Philosophy—First Book: General Introduction to a Pure Phenomenology (Ideas I), F. Kersten trans. (The Hague: Martinus Nijhoff Publishers, 1982), 55.

[xxviii] ‘Ý thức’ trong tiếng Đức là ‘Bewusstsein’, trong đó có bao gồm chữ ‘sein’ mang nghĩa là tồn tại.

[xxix] Edmund Husserl, Ý Niệm Hiện Tượng Học, 56-57

[xxx] Edmund Husserl, Logical Investigations - Vol I, J. N. Findlay trans. (London: Routledge, 2001), 305.

[xxxi] Maurice Merleau Ponty, Phenomenology of Perception, Routledge Classics Press, Lon Don, U. K, “Preface”, 2005, 4.

[xxxii] Một vài học giả tại Việt Nam đã tạm dịch hạn từ Noesis là ‘Trí Hoạt’ (hoạt động của tâm trí) và Noema là ‘Trí Kiệt’ (Kiệt trong tiếng hán là , nghĩa là           cái cọc đóng để làm dấu một sự vật gì đó).

[xxxiii] Maurice Merleau-Ponty, Phenomenology of Perception, Colin Smith trans. (London: Routledge,
2002), 19.

[xxxiv] Ibid, 14.

[xxxv] Edmund Husserl, Ideas I, 233

[xxxvi] Edmund Husserl, Logical Investigations - Vol II, J. N. Findlay trans. (London: Routledge, 2001), 122.

[xxxvii] Dermot Moran and Joseph Cohen, The Husserl Dictionary (London: Continuum International Publishing Group, 2012), 224.

[xxxviii]  Edmund Husserl, Ideas I, 233

[xxxix] Ibid, 307.

[xl] Edmund Husserl, Ideas I, 313

[xli] Ibid, 307.

[xlii] Dermot Moran and Joseph Cohen, The Husserl Dictionary, (London: Continuum International Publishing Group, 2012), 222-223. Anh Cf. Edmund Husserl, Cathesian Mediatations, 90-92 and Edmund Husserl, The Crisis of European Sciences and Transcendental Phenomenology: An Introduction to Phenomenological Philosophy, David Carr trans. (Evanston: Northwestern University Press, 1970), 82.

[xliii] Diêu Trị Hoa, Edmund Husserl, Trịnh Cư trans. (Huế: Thuận Hóa, 2005), 160-161.

[xliv] Maurice Merleau-Ponty, xiii

[xlv] Edmund Husserl, Ý Niệm Hiện Tượng Học, 120-121.

[xlvi] Matheson Russell, Husserl – A Guide for the Perplexed (New Yorl: Continuum International Publishing Group, 2006), 79.

[xlvii] Matheson Russell, Husserl – A Guide for the Perplexed, 79.

[xlviii] Dermot Moran and Joseph Cohen, The Husserl Dictionary (New York: Contiuum, 2012), 167.

[xlix] Dan Zahavi, Husserl’s Phenomenology, 15.

[l] Cf. ““The main phenomenological theme is ‘intentionality’”. section 84 of Ideas, entitled "Intentionality as the Main Phenomenological Theme". Husserl, 1962, 222.

[li] Cf. Bruno Cassara. Religions Article: Phenomenology and Transcendence: On Openness and Metaphysics in Husserl and Heidegger, 4. (Vào mùa hè năm 1927, Heidegger đã soạn những bài giảng liên quan đến ‘The Basic Problems of Phenomenology,’ và ông đã đào sâu nghiên cứu của mình về tính siêu việt của Dasein và kết nối nó với khả năng hiểu hiện hữu của Dasein, thông qua hiện tượng học của E. Husserl).

[lii] Thật vậy, I. Lévinas tìm cách phát triển Hiện tượng học của E. Husserl tại Pháp và ông đã viết luận án tiến sĩ của mình với nội dung là “Lý Thuyết Trực Giác trong Hiện Tượng Học của Husserl” (The Theory of Intuition in Husserl’s Phenomenology). Luận án đó được xuất bản sau đó không lâu tại Pháp. Spagnuolo Vigorita 2021, 43–45.

[liii] Cf. Bruno Cassara. Article: Phenomenology and Transcendence: On Openness and Metaphysics in Husserl and Heidegger, 23. (Spiegelberg cho rằng hiện tượng học của E. Husserl được vang dội ở Pháp chính là nhờ Jean Paul Sartre. Cụ thể là bài luận của Sartre với tựa đề: ‘On the Transcendence of the Ego’ (Sartre 1991) và cuốn sách dày với tên ‘Studies on the imagination and the emotions’ được viết vào các năm 1936 và 1940).

[liv] Paul Ricoeur, A Key to Husserl’s Ideas I, Marquette University Press, 1975;  85.

[lv] Merleau-Ponty kế thừa hiện tượng học của E. Husserl và xây dựng Hữu thể luận hiện tượng (dựa vào Chiasme).

[lvi] Cf. Journal of the American Academy of Religion, LIII/1, the role of intentionality in the phenomenology of religion by Evan M. Zuesse, 3.

[lvii] Cf. Martin Heidegger, Being and time,  Translated by John Macquarrie & Edward Robinson, Blackwell Oxford & Cambridge USA, 1962, n.38, 32.

[lviii] Chiasme là sự đan kết (interwining/ l’entrelacs), như là cấu trúc siêu hình của nhục thể, theo giải thích về hữu thể luận hiện tượng của Merleau-Ponty.

[lix] Merleau-Ponty, Phenomenology of Perception, Translated by Colin Smith. London: Routledge Classics Press, 2002, 16.

0 Comments: