Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2023

Lối Tiếp Cận Thuyết Vị Lợi

 Lối Tiếp Cận Thuyết Vị Lợi



7.1. Cuộc cách mạng về đạo đức

Cuối thế kỷ 18 và 19 chứng kiến một loạt biến động đáng kinh ngạc: chế độ hà nước hiện đại nổi lên từ Cách mạng Pháp và sự đổ nát của đế chế Napoléon; các cuộc cách mạng năm 1848 đã cho thấy sức mạnh biến đổi của những tư tưởng “tự do, bình đẳng và bác ái”; ở thế giới mới, nước Mỹ ra đời, thể hiện một loại hiến pháp mới; và cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865) chấm dứt chế độ nô lệ trong nền văn minh phương Tây. Trong khi đó, cuộc Cách mạng Công nghiệp đã mang lại sự tái cấu trúc hoàn toàn xã hội. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những ý tưởng mới về đạo đức xuất hiện trong thời đại này. Đặc biệt, Jeremy Bentham (1748–1832) đã đưa ra một lập luận mạnh mẽ cho một quan niệm mới về đạo đức. Ông thúc giục, đạo đức không phải là làm hài lòng Chúa (God), cũng không phải là trung thành với các quy tắc trừu tượng. Thay vào đó, đạo đức là làm cho thế giới hạnh phúc nhất có thể. Bentham tin vào một nguyên tắc đạo đức tối thượng, đó là nguyên lý vị lợi (Principle of Utility). Nguyên lý này đòi hỏi chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, phải tạo ra nhiều hạnh phúc nhất có thể. Bentham là người đứng đầu của một nhóm triết học cấp tiến với mục đích cải cách luật pháp và các thể chế của nước Anh theo đường lối thực dụng. Một trong những người theo ông là James Mill, nhà triết học, nhà sử học và nhà kinh tế nổi tiếng người Scotland. Con trai của James Mill, John Stuart Mill (1806–1873), trở thành người ủng hộ hàng đầu cho lý thuyết đạo đức vị lợi. Lời biện hộ của John Stuart thậm chí còn tao nhã và thuyết phục hơn của Bentham. Cuốn sách ngắn thuyết vị lợi (1861) của Mill vẫn là một cuốn sách bắt buộc phải đọc đối với những sinh viên nghiêm túc về mặt đạo đức. Thoạt nhìn, Nguyên lý vị lợi (Principle of Utility) có vẻ không phải là một ý tưởng cấp tiến như vậy; trên thực tế, nó có vẻ quá rõ ràng để đề cập đến. Ai không tin rằng chúng ta nên chống lại đau khổ và thúc đẩy hạnh phúc? Tuy nhiên, theo cách riêng của họ, Bentham và Mill cũng mang tính cách mạng như hai nhà đổi mới trí tuệ vĩ đại khác của thế kỷ 19, Darwin và Marx. Để hiểu tại sao Nguyên lý vị lợi (Principle of Utility) lại triệt để đến vậy, hãy xem xét những gì nguyên tắc này loại bỏ khỏi đạo đức: Không còn quy chiếu về Chúa (God) hay các quy tắc đạo đức trừu tượng “được viết trên trời”. Đạo đức không còn được coi là trung thành với một số quy tắc được thần thánh ban cho hoặc một số quy tắc cứng nhắc. Như Peter Singer (1946–) sau này đã nói, đạo đức không phải là “một hệ thống cấm đoán thuần túy khó chịu . . . được thiết kế để ngăn mọi người [không] vui chơi.” Thay vào đó, mục đích của đạo đức là hạnh phúc của chúng sinh trong thế giới này, và không có gì hơn, chúng ta được phép—thậm chí bị bắt buộc—làm bất cứ điều gì cần thiết để thúc đẩy hạnh phúc đó. Đây là một ý tưởng mang tính cách mạng. Như tôi đã nói, những người theo chủ nghĩa vị lợi là những nhà cải cách xã hội cũng như những triết gia. Họ dự định học thuyết của họ sẽ tạo ra sự khác biệt, không chỉ trong tư tưởng mà cả trong thực tế. Để minh họa điều này, chúng ta sẽ xem xét ngắn gọn ý nghĩa về các ý tưởng của họ đối với ba vấn đề thực tế: an tử (euthanasia), cần sa (marijuana) và áp dụng đối xử với động vật (and the treatment of nonhuman animals). Những vấn đề này không làm cạn kiệt các ứng dụng thực tế của thuyết vị lợi (Utilitarianism); chúng cũng không nhất thiết là những thứ mà những người theo chủ nghĩa thực dụng sẽ thấy cấp bách nhất. Nhưng chúng cho chúng ta hiểu rõ về cách những người theo chủ nghĩa vị lợi tiếp cận các vấn đề đạo đức.

7.2. Ví dụ đầu tiên: Trợ tử (Euthanasia)

Sigmund Freud (1856–1939), một nhà tâm lý học nổi tiếng, được chẩn đoán mắc bệnh ung thư miệng sau cả đời hút xì gà. Trong những năm cuối đời, sức khỏe của Freud trở nên thất thường, nhưng vào đầu năm 1939, một vết sưng lớn hình thành ở trong miệng của ông, và ông không còn cảm thấy sức khỏe của mình tốt nữa. Bệnh ung thư của Freud đang phát triển và không thể phẫu thuật được, đồng thời ông cũng bị suy tim. Khi xương của ông mục nát, chúng tỏa ra mùi hôi, khiến con chó yêu thích của anh ta phải bỏ đi. Màn chống muỗi phải được phủ trên giường của anh ấy để đuổi ruồi.

Vào ngày 21 tháng 9, ở tuổi 83, Freud nắm tay Max Schur, người bạn và cũng là bác sĩ riêng của ông, và nói: “Schur thân mến của tôi, bạn chắc chắn nhớ cuộc nói chuyện đầu tiên của chúng ta. Bạn đã hứa với tôi sau đó sẽ không bỏ rơi tôi khi tôi sắp lìa đời. Bây giờ, tôi đang ở trong tình cảng chẳng khác gì tra tấn và chẳng còn ý nghĩa gì nữa.” Bốn mươi năm trước, Freud đã viết, “Cá nhân đã đi được đến đâu. . . nếu một người không dám tiết lộ rằng đến lượt người này hay người kia phải chết? Tiến sĩ Schur cho biết ông hiểu yêu cầu của Freud. Anh ta đã tiêm cho Freud một loại thuốc để kết liễu cuộc đời mình. Tiến sĩ Schur viết: “Anh ấy nhanh chóng cảm thấy nhẹ nhõm và chìm vào giấc ngủ yên bình.”

Max Schur có làm gì sai không? Một mặt, anh ấy được thúc đẩy bởi những tình cảm cao thượng—anh ấy yêu bạn mình và muốn giảm bớt đau khổ cho bạn mình. Hơn nữa, Freud đã yêu cầu được chết. Tất cả điều này chỉ ra cho một cách hành xử khoan dung. Mặt khác, những gì Schur đã làm là sai về mặt đạo đức, theo truyền thống đạo đức chiễm ưu thế trong nền văn hóa của chúng ta.

 Đó là truyền thống Ki-tô giáo. Kitô giáo cho rằng cuộc sống con người là một món quà từ Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể quyết định lấy đi sự sống ấy. Giáo hội thời sơ khai đã cấm giết người và tin rằng những lời dạy của Chúa Giê-su không cho phép có ngoại lệ đối với quy tắc. Sau đó, Giáo hội đã công nhận một số trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn như hình phạt tử hình và giết người trong chiến tranh. Nhưng tự tử và trợ tử vẫn bị cấm. Nói cách ngắn ngọn về học thuyết của Giáo hội, các nhà thần học đã đưa ra quy tắc: cố ý giết người vô tội luôn là sai trái. Hơn bất kỳ ý tưởng nào khác, ý tưởng này đã định hình thái độ của người phương Tây về đạo đức của việc giết chóc. Vì vậy, chúng ta có thể miễn cưỡng bào chữa cho Max Schur, mặc dù anh ấy đã hành động vì những động cơ cao cả. Anh ta cố ý giết một người vô tội; do đó, theo truyền thống của chúng tôi, những gì anh ấy đã làm là sai.

Chủ nghĩa vị lợi có một cách tiếp cận rất khác. Nó hỏi: hành động nào phù hợp cho Max Schur có thể tạo ra sự tương xứng nhất cho hạnh phúc hơn sự bất hạnh?  Với một người, hạnh phúc của mình bị đe dọa nhiều nhất là Sigmund Freud. Nếu Schur không giết anh ta, Freud sẽ tiếp tục sống trong đau đớn cùng cực. Bao nhiêu nỗi bất hạnh có thể liên quan đến điều này? Thật khó để nói chính xác; nhưng tình trạng của Freud tồi tệ đến mức anh ta thích cái chết hơn. Việc giết anh ta đã làm chấm dứt sự thống khổ của anh ta. Do đó, những người theo chủ nghĩa vị lợi đã kết luận rằng trợ tử, trong trường hợp như vậy, là đúng về mặt đạo đức.


Mặc dù lập luận này rất khác với lập luận trong truyền thống Ki-tô giáo, nhưng những người theo chủ nghĩa vị lợi cổ điển không nghĩ rằng họ đang ủng hộ một triết lý vô thần hoặc phản tôn giáo. Bentham nghĩ rằng những người trung thành sẽ tán thành quan điểm thực dụng nếu họ chỉ coi Chúa là nhân từ. Anh ấy viết:

Trong mọi trường hợp, các chỉ dẫn của tôn giáo có thể trùng khớp với những người thực dụng, họ cho rằng có một Bản thể, đối tượng của tôn giáo, được mọi người cho là nhân từ cũng như được cho là khôn ngoan và quyền năng. . . Nhưng trong số [những người ủng hộ] tôn giáo . . . dường như có nhưng rất ít. . . những người thực sự tin tưởng vào lòng nhân từ của Ngài. Trên môi miệng họ cho là Thiên Chúa nhân từ, nhưng trong hành động họ không cho thấy Chúa nhân từ.

Tính luân lý (the morality) của việc giết người không thương tiếc có thể là một trường hợp điển hình. Bentham có thể hỏi, làm thế nào mà một vị Chúa nhân từ lại có thể cấm giết Sigmund Freud? Nếu ai đó nói, “Chúa quan tâm và yêu thương—nhưng Ngài cấm chúng ta không được đưa Freud ra khỏi sự đau khổ của anh ấy,” thì đây chính xác là ý của Bentham khi “cho rằng Ngài nhân từ trong lời nói, nhưng không có nghĩa là Ngài nhân từ trong thực tế.”

Phần lớn những người theo đạo không đồng ý với Bentham, và không chỉ truyền thống đạo đức mà cả truyền thống luật pháp của chúng ta đã hình thành dưới ảnh hưởng của Ki-tô giáo. Trong số các quốc gia phương Tây, cái chết êm dịu chỉ hợp pháp ở một số ít quốc gia. Ở Hoa Kỳ, việc đó đơn giản là giết người và một bác sĩ cố ý giết bệnh nhân của mình có thể phải ngồi tù suốt đời. Chủ nghĩa vị lợi sẽ nói gì về điều này? Nếu cái chết trợ tử là hợp đạo đức, theo quan điểm vị lợi, chết kiểu vậy có nên hợp pháp không?

Nói chung, chúng tôi không muốn đặt ra ngoài vòng pháp luật hành vi có thể chấp nhận được về mặt đạo đức. Bentham được đào tạo về luật, và ông coi Nguyên tắc thực dụng là kim chỉ nam cho cả các nhà lập pháp và người bình dân. Ông nghĩ rằng mục đích của luật là thúc đẩy phúc lợi của mọi công dân. Để phục vụ mục đích này, luật pháp nên hạn chế quyền tự do của mọi người càng ít càng tốt. Đặc biệt, không có hoạt động nào bị đặt ngoài vòng pháp luật trừ khi hoạt động đó gây hại hoặc nguy hiểm cho người khác. Ví dụ, Bentham phản đối luật điều chỉnh hành vi tình dục của những người trưởng thành trong sự đồng ý. Nhưng chính Mill là người đã đưa ra nguyên tắc này một cách hùng hồn nhất, trong cuốn Bàn về tự do (1859):

Mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách hợp pháp đối với bất kỳ thành viên nào của một cộng đồng văn minh, trái với ý muốn của anh ta, là để ngăn ngừa tổn hại cho những người khác. Lợi ích của chính anh ta, dù là thể chất hay đạo đức, không phải là một sự bảo đảm đầy đủ…Đối với bản thân, đối với cơ thể và tâm trí của chính mình, từng cá nhân có chủ quyền.

Do đó, đối với những người theo chủ nghĩa thực dụng cổ điển, luật chống lại cái chết an tử là những hạn chế phi lý đối với khả năng của con người nhằm làm chủ cuộc sống của chính họ. Khi Max Schur giết Sigmund Freud, anh ta đang giúp Freud kết thúc cuộc đời theo cách mà Freud đã chọn. Không có tổn hại nào gây ra cho bất kỳ ai khác, và vì vậy đó không phải là việc của ai khác. Bản thân Bentham được cho là đã yêu cầu trợ tử trong những ngày cuối đời. Tuy nhiên, chúng tôi không biết liệu yêu cầu của ông có được chấp nhận hay không.

7.3 Ví dụ thứ ba:

Bennett là "trùm ma túy" đầu tiên của Mỹ. Từ năm 1989 đến năm 1991, với tư cách là cố vấn hàng đầu của Tổng thống George H. W. Bush về chính sách ma túy, ông ủng hộ việc thực thi mạnh mẽ luật ma túy của Hoa Kỳ. Bennett, người có bằng tiến sĩ triết học, cho biết, “Trên thực tế, sử dụng ma túy đơn giản là sai. Và lập luận đạo đức là thuyết phục nhất.” Có vẻ như “lập luận về đạo đức” của Bennett chỉ là sự khẳng định rằng là sử dụng ma túy là sai ngay từ bản chất của nó. Những người vị lợi sẽ nghĩ gì về điều này? Đối với họ, không có “sự thật đơn giản” nào về việc sử dụng ma túy có trái đạo đức hay không. Thay vào đó, lập luận đạo đức phải chỉ ra vấn đề phức tạp là liệu rằng sử dụng ma túy làm tăng hay giảm hạnh phúc. 

Chúng ta hãy xét một loại thuốc phiện cụ thể là cần sa. Một người vị lợi sẽ nói gì về đạo đức của thuốc phiện? 

Người ta rất quan tâm về chủ đề này. Những người trẻ tuổi sử dụng ma túy có thể ở thế phòng thủ và phủ nhận rằng cần sa không gây hại gì cả; những người lớn tuổi không sử dụng ma túy có thể hay phán xét trong khi lại không phân biệt được cần sa với các loại ma túy nặng hơn như cocaine và methamphetamine. Một người vị lợi tốt sẽ bỏ qua những cảm giác như vậy. Những ưu và nhược điểm của cần sa, theo Chủ nghĩa vị lợi là gì?

 Lợi ích chính của thuốc là niềm vui mà nó mang lại. Cần sa không chỉ giúp thư giãn rất nhiều mà còn có thể nâng cao đáng kể khoái cảm các hoạt động giác quan, chẳng hạn như ăn uống, nghe nhạc và quan hệ tình dục. Thực tế này hầu như không bao giờ được đề cập trong cuộc thảo luận công khai; mọi người dường như cho rằng sự vui thích thì không liên quan đến đạo đức. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa vị lợi không đồng ý. Họ chỉ quan tâm đến vấn đề thuốc làm tăng hay giảm hạnh phúc. Và những người theo chủ nghĩa vị lợi không tin vào những “thú vui xấu”. Nếu một cái gì đó cảm thấy tốt, thì nó là tốt, ít nhất là ở mức độ đó.

Cần sa dễ chịu như thế nào? Một số người thích ; một số người không thích; và rất nhiều người cho rằng nó còn phụ thuộc vào việc cần sa có được sử dụng trong một khung cảnh thoải mái hay không. Vì vậy, thật khó để khái quát hóa. Nhưng thực tế cho thấy nhiều người thích được thăng hoa. Cần sa là loại thuốc bất hợp pháp phổ biến nhất ở Mỹ: Một phần ba người Mỹ đã thử nó; 6% đã sử dụng nó trong tháng qua; và người Mỹ chi hơn 10 tỷ đô la mỗi năm cho nó, bất chấp mối đe dọa sẽ bị ngồi tù. 

Điều bất hạnh nào mà cần sa gây ra? Một số cáo buộc chống lại nó là vô căn cứ. Thứ nhất, cần sa không gây ra bạo lực; cần sa có xu hướng làm cho người ta thụ động, không tích cực. Thứ hai, cần sa không phải là “ma túy đầu ngõ” khiến người ta thèm muốn và sử dụng liệu  nặng hơn. Thông thường, mọi người sử dụng cần sa trước khi sử dụng các loại thuốc nặng hơn, nhưng đó là vì cần sa quá phổ biến. Ở những khu vực dễ dàng kiếm được cocaine hơn, mọi người thường thử cocaine trước. Thứ ba, cần sa không gây nghiện cao. Theo các chuyên gia, nó ít gây nghiện hơn caffein. Những người theo chủ nghĩa vị lợi không muốn đánh giá dựa trên thông tin sai lệch.

Tuy nhiên, cần sa thực sự có một vài nhược điểm cần được cân nhắc với lợi ích. Đầu tiên, một số người bị nghiện cần sa. Mặc dù việc cai cần sa không gây chấn thương như cai heroin, nhưng việc bỏ thuốc gây khó chịu cho người nghiện. Thứ hai, sử dụng nhiều trong thời gian dài có thể gây ra tổn thương nhẹ về nhận thức, có thể giảm mức độ hạnh phúc. Thứ ba, lúc nào cũng phê sẽ khiến một người làm việc không hiệu quả. Thứ tư, hút cần sa có hại cho hệ hô hấp; một điếu cần sa có thể gây hại cho phổi bằng khoảng sáu điếu thuốc lá. Tuy nhiên, dùng cần sa theo những cách khác, chẳng hạn như nướng nó thành bánh hạnh nhân, thì hoàn toàn không có hại cho phổi.

Những nhà vị lợi kết luận gì từ tất cả những điều trên? Khi chúng ta xem xét những tác hại và lợi ích, dùng cần sa không thường xuyên dường như không phải là một vấn đề đạo đức; vì chưa ghi nhận bất lợi nào về việc này. Do đó, những người theo chủ nghĩa vị lợi coi việc sử dụng bình thường là vấn đề sở thích cá nhân. Sử dụng nhiều cần sa gây ra nhiều vấn đề phức tạp hơn. Nếu một người sử dụng nhiều trong thời gian dài thì liệu lợi ích có nhiều hơn tác hại không? Nó có thể phụ thuộc vào từng người. Dù sao đi nữa, câu hỏi khó đến mức những người theo chủ nghĩa vị lợi có thể không đồng ý với câu trả lời. 

Cho đến giờ chúng ta đã thảo luận về quyết định của cá nhân về việc có sử dụng cần sa hay không. Còn luật pháp thì sao - theo Chủ nghĩa vị lợi thì cần sa có phải là bất hợp pháp không? Theo họ việc nhiều người thích phê cần sa là lý do chính để hợp pháp hóa nó. Các yếu tố liên quan khác là gì?

Nếu hợp pháp hóa cần sa, nhiều người sẽ sử dụng nó hơn, và sẽ nảy sinh một vài lo lắng từ thực tế đó: xã hội nói chung có thể trở nên kém hiệu quả hơn; những người đóng thuế có thể gặp khó khăn với các hóa đơn y tế của những người sử dụng nhiều; và nhiều người có thể lái xe trong tình trạng thăng hoa. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cần sa chỉ làm suy yếu nhẹ khả năng lái xe, vì những người phê đá thì lái xe thận trọng và phòng thủ.

Mặt khác, xã hội sẽ tốt hơn trong chừng mực cần sa thay thế rượu như một hình thức lạm dụng thuốc: những công dân nghiện ngập không làm việc hiệu quả, nhưng những người nghiện rượu thậm chí còn bỏ lỡ nhiều công việc hơn vì cảm giác nôn nao vào buổi sáng; nghiện rượu đặc biệt tốn kém về chăm sóc sức khỏe; rượu làm suy giảm khả năng lái xe nhiều hơn so với cần sa; và cuối cùng, những kẻ say rượu bạo lực hơn nhiều so với những kẻ phê đá. Do đó, một lợi ích của việc hợp pháp hóa cần sa là sẽ có ít người nghiện rượu hơn, ngay cả khi sẽ có nhiều người nghiện cần sa hơn.

Ngoài ra, có hai chi phí lớn để duy trì các luật hiện hành. Thứ nhất là khoản thất thu cho xã hội. Với việc cần sa bất hợp pháp, xã hội chi tiền cho việc thực thi hình sự; với cần sa hợp pháp, xã hội thu tiền từ việc đánh thuế cần sa. Hợp pháp hóa cần sa ở Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm khoảng 7,7 tỷ đô la mỗi năm cho chi phí thực thi và nó sẽ tạo ra từ 2,4 đến 6,2 tỷ đô la doanh thu thuế, tùy thuộc vào việc cần sa bị đánh thuế bình thường hay ở mức cao hơn rượu và thuốc lá hiện tại. 

Nhưng cái giá phải trả lớn nhất là những thiệt hại gây ra cho những tội nhân. Tại Hoa Kỳ, hơn 700.000 người bị bắt mỗi năm vì tàng trữ cần sa và hơn 44.000 người hiện đang ở tù vì  sử dụng cần sa. Bên cạnh chịu đựng sự khủng khiếp khi bị bắt và tống giam, những cựu tù nhân còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc tử tế. Những người theo chủ nghĩa vị lợi quan tâm đến những tác hại này, mặc dù tác hại gây ra cho những kẻ vi phạm pháp luật, những người biết rằng họ có thể bị trừng phạt.

Do đó, hầu hết tất cả những người theo chủ nghĩa vị lợi đều ủng hộ việc hợp pháp hóa cần sa. Nhìn chung, cần sa ít gây hại hơn rượu hoặc thuốc lá, những thứ mà các xã hội phương Tây đã chấp nhận. Tuy nhiên, những người theo thuyết vị lợi cần phải linh hoạt; nếu những bằng chứng mới xuất hiện, cho thấy cần sa có hại hơn người ta nghĩ trước đây, thì quan điểm vị lợi có thể thay đổi.

7.4. Ví dụ thứ ba: Những động vật

Việc đối xử với động vật theo truyền thống được coi là một vấn đề nhỏ nhặt. Người Công Giáo tin rằng chỉ có con người được tạo ra theo hình ảnh của Thiên Chúa, còn động vật không có linh hồn. Do đó, lẽ tự nhiên, chúng ta có thể đối xử với động vật theo bất kỳ cách nào chúng ta muốn. Thánh Thomas Aquinas (1225–1274) đã nói lên quan điểm truyền thống này khi Ngài viết: 

Ở đây, tôi bác bỏ ý nghĩ sai lầm của những người cho rằng con người giết những con vật hung dữ là tội lỗi; vì theo sự quan phòng thiêng liêng, chúng được dành cho con người sử dụng theo trật tự tự nhiên. Do đó, không có gì sai khi con người sử dụng chúng, bằng cách giết chúng hoặc bằng bất kỳ cách nào khác. 

Nhưng đối xử tàn ác với động vật không phải là sai sao? Aquinas thừa nhận là có, nhưng ông nói lý do liên quan đến lợi ích của con người, không phải ích lợi của động vật: 

Và nếu bất kỳ đoạn nào trong Kinh Thánh dường như cấm chúng ta đối xử tàn ác với động vật vũ phu, chẳng hạn như giết một con chim bằng con non của nó, thì điều này hoặc là để loại bỏ suy nghĩ của con người về việc tàn ác với những người khác, kẻo trở nên tàn nhẫn với động vật, tàn ác với con người; hoặc vì thương tích đối với một con vật dẫn đến sự tổn thương tạm thời của con người, của người thực hiện hành động đó, hoặc của người khác. 

Như vậy, con người và động vật nằm trong những phạm trù đạo đức riêng biệt. Nơi động vật thì không có ý niệm về đạo đức; chún ta được tự do đối xử với chúng theo bất kỳ cách nào chúng ta muốn. 

Nói một cách thẳng thắn, học thuyết truyền thống có thể khiến chúng ta có chút lo lắng: Có vẻ như học thuyết này cực đoan khi không quan tâm đến những động vật, dù sao thì nhiều trong số đó là những sinh vật thông minh và nhạy cảm. Tuy nhiên, chỉ cần suy ngẫm một chút để thấy mức độ hành vi của chúng ta thực sự được hướng dẫn bởi giáo lý này. Chúng ta ăn động vật; chúng ta sử dụng chúng làm đối tượng thử nghiệm trong phòng thí nghiệm của mình; chúng ta sử dụng da của chúng để làm quần áo và đầu của chúng làm đồ trang trí trên tường; chúng ta biến chúng thành đối tượng tiêu khiển trong rạp xiếc và trò cưỡi ngựa; và chúng ta theo dõi chúng và giết chúng để chơi thể thao. 

Nếu một người không thoải mái với “sự biện minh” thần học của những thực hành này, thì các triết gia phương Tây đã đưa ra rất nhiều cách thức. Các nhà triết học đã nói rằng động vật không có lý trí, rằng chúng không có khả năng nói, hoặc đơn giản là chúng không phải là con người—và tất cả những điều này được đưa ra như là lý do tại sao lợi ích của chúng nằm ngoài phạm vi quan tâm của đạo đức.

Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa thực dụng sẽ không chấp nhận điều này. Theo quan điểm của họ, điều quan trọng không phải là liệu một con vật có linh hồn, có lý trí hay bất kỳ phần còn lại nào không. Tất cả vấn đề là liệu nó có thể trải nghiệm hạnh phúc và bất hạnh hay không. Nếu một con vật có thể bị đau, thì chúng ta có nhiệm vụ tính đến điều đó khi quyết định phải làm gì. Trên thực tế, Bentham lập luận rằng việc một con vật là con người hay không phải con người cũng không quan trọng bằng việc con vật đó có màu đen hay trắng. Anh ấy viết:

Có thể đến một ngày mà phần còn lại của tạo vật là động vật có thể có được những quyền mà chúng không bao giờ có thể bị tước đoạt nếu không có bàn tay của sự tàn bạo. Người Pháp đã phát hiện ra rằng màu da đen không phải là lý do tại sao một con người có thể bị bỏ rơi mà không có biện pháp khắc phục trước sự thất thường của một kẻ hành hạ. Một ngày nào đó, người ta có thể nhận ra rằng số lượng chân, độ dày của da hoặc sự kết thúc của xương cùng là những lý do không đủ để bỏ mặc một sinh vật có cảm giác chịu chung số phận. Điều gì có thể truy tìm vấn đề khó khăn này? Đó có phải là khoa lý luận, hay có lẽ là khoa diễn ngôn? Nhưng một con ngựa hoặc chó trưởng thành hoàn toàn không thể so sánh như là một loài động vật có lý trí hơn, cũng như một con vật biết nói hơn là so với một đứa trẻ sơ sinh một ngày, một tuần hoặc thậm chí một tháng tuổi. Nhưng giả sử họ khác đi, nó sẽ có ích gì? Câu hỏi không phải là, chúng có thể suy luận không? chúng thể nói chuyện không? Nhưng là chúng có đau khổ không?

Nếu một con người bị dày vò, tại sao nó lại sai? Vì người đó đau khổ. Tương tự như vậy, nếu con vật không phải con người bị hành hạ, nó cũng đau khổ. Phải chăng một con người hay một con vật đau khổ đơn giản là không liên quan. Đối với Bentham và Mill, dòng lập luận này đã được kết luận. Con người và con vật không phải con người đều có quyền được quan tâm về mặt đạo đức như nhau.

Quan điểm này có vẻ cực đoan, theo hướng ngược lại với quan điểm truyền thống cho rằng động vật không có tư cách đạo đức nào cả. Động vật có thực sự được coi là bình đẳng với con người? Theo một nghĩa nào đó, Bentham và Mill cũng nghĩ như vậy, nhưng họ không tin rằng động vật và con người luôn phải được đối xử như nhau. Có những khác biệt thực tế giữa chúng thường sẽ biện minh cho sự khác biệt trong đối xử. Ví dụ, nhờ khả năng trí tuệ của mình, con người có thể thích thú với những thứ mà những con vật không thể như toán học, văn học, trò chơi chiến lược, v.v. Và tương tự như vậy, khả năng vượt trội của con người khiến họ có khả năng chịu đựng những thất vọng và chán nản mà các loài động vật khác không thể trải qua. Do đó, nghĩa vụ thúc đẩy hạnh phúc của chúng ta kéo theo nghĩa vụ thúc đẩy những thú vui đặc biệt đó cho con người, cũng như ngăn chặn bất kỳ tác hại đặc biệt nào mà họ có thể phải gánh chịu. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta có nghĩa vụ đạo đức phải tính đến sự đau khổ của động vật, và sự đau khổ của chúng cũng được tính ngang bằng với bất kỳ sự đau khổ tương tự nào mà con người phải trải qua.

Năm 1970, nhà tâm lý học người Anh Richard D. Ryder đặt ra thuật ngữ "chủ nghĩa loài" để chỉ ý tưởng rằng lợi ích của động vật ít quan trọng hơn lợi ích của con người. Những người theo chủ nghĩa vị lợi tin rằng chủ nghĩa loài là sự phân biệt đối xử với các loài khác, giống như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là sự phân biệt đối xử với các chủng tộc khác. Ryder tự hỏi làm thế nào chúng ta có thể biện minh cho việc cho phép những thí nghiệm như thế này:

• Tại Maryland năm 1996, các nhà khoa học đã sử dụng chó beagle để nghiên cứu về sốc nhiễm trùng. Họ khoét lỗ trên cổ họng của những con chó và đặt những cục máu đông nhiễm vi khuẩn E. coli vào dạ dày của chúng. Trong vòng ba tuần, hầu hết những con chó đã chết.

• Tại Đài Loan năm 1997, các nhà khoa học đã thả vật nặng lên sống lưng chuột để nghiên cứu chấn thương cột sống. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng chấn thương lớn hơn là do thả tạ từ độ cao lớn hơn.

• Từ những năm 1990, tinh tinh, khỉ, chó, mèo và động vật gặm nhấm đã được sử dụng để nghiên cứu chứng nghiện rượu. Sau khi cho động vật nghiện rượu, các nhà khoa học đã quan sát thấy các triệu chứng như nôn mửa, run rẩy, lo lắng và co giật. Khi động vật cai rượu, các nhà khoa học đã gây co giật bằng cách nhấc đuôi chúng lên, sốc điện và tiêm hóa chất vào não chúng.

Lập luận của những người theo chủ nghĩa vị lợi đủ đơn giản . Chúng ta nên đánh giá các hành động đúng hay sai tùy thuộc vào việc chúng mang lại nhiều hạnh phúc hay bất hạnh hơn. Những con vật trong những thí nghiệm này rõ ràng là đã bị gây đau khổ khủng khiếp. Có hay không bất kỳ lợi ích bù đắp hạnh phúc mà biện minh cho việc đó? Có phải sự bất hạnh lớn hơn đã được ngăn chặn, cho các loài động vật khác hay cho con người? Nếu không, các thí nghiệm là không thể chấp nhận được về mặt đạo đức.

Phong cách lập luận này không ngụ ý rằng tất cả các thí nghiệm trên động vật là vô đạo đức. Thay vào đó, nó gợi ý đánh giá từng người theo giá trị riêng của họ. Tuy nhiên, nguyên tắc vị lợi ngụ ý rằng các thí nghiệm gây ra nhiều đau đớn đòi hỏi phải có sự biện minh quan trọng. Chúng ta không thể đơn giản cho rằng, trong việc đối phó với những người không phải con người, mọi thứ đều ổn.

Nhưng chỉ trích các thí nghiệm trên động vật là quá dễ dàng đối với hầu hết chúng ta. Chúng ta có thể cảm thấy tự cho mình là đúng hoặc vượt trội vì chúng ta không tự mình thực hiện nghiên cứu đó. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều dính vào tội ác khi ăn thịt. Sự thật về sản xuất thịt đáng lo ngại hơn bất kỳ sự thật nào về thí nghiệm trên động vật.

Hầu hết mọi người đều tin một cách mơ hồ rằng các lò sát sinh thật khó chịu, nhưng động vật được nuôi để làm thực phẩm thì được đối xử nhân đạo. Trên thực tế, động vật trang trại sống trong điều kiện ghê tởm trước khi bị đưa đi giết mổ. Ví dụ, bê thịt dành 24 giờ mỗi ngày trong chuồng nhỏ đến mức chúng không thể xoay người, nằm xuống một cách thoải mái hoặc thậm chí xoay đầu xung quanh để loại bỏ ký sinh trùng. Các nhà sản xuất đặt chúng trong những chiếc chuồng nhỏ để tiết kiệm tiền và giữ cho thịt của chúng mềm. Những con bò rõ ràng nhớ mẹ của chúng, và giống như trẻ sơ sinh của con người, chúng muốn có thứ gì đó để bú, vì vậy chúng cố gắng bú các mặt của chuồng gỗ một cách vô ích. Những con bê cũng được cho ăn một chế độ ăn thiếu chất sắt và thức ăn thô, để giữ cho thịt của chúng có màu nhạt và ngon. Sự khao khát sắt của chúng trở nên mạnh mẽ đến mức chúng sẽ liếm nước tiểu của chính mình nếu chúng được phép quay lại - điều mà bình thường chúng sẽ không bao giờ làm. Không có thức ăn thô, bê không thể nhai lại. Vì lý do này, chúng không thể được cho lót chuồng bằng rơm, vì chúng sẽ ăn nó để cố gắng tiêu thụ thức ăn thô. Vì vậy, đối với những con vật này, lò mổ không phải là một kết thúc khó chịu cho một sự tồn tại mãn nguyện.

Bê bê chỉ là một ví dụ. Gà, gà tây, lợn và bò trưởng thành đều sống trong điều kiện khủng khiếp trước khi bị giết thịt. Lập luận thực dụng về những vấn đề này là đủ đơn giản. Hệ thống sản xuất thịt gây ra đau khổ to lớn cho động vật mà không có lợi ích bù đắp. Vì vậy, chúng ta nên từ bỏ hệ thống đó. Chúng ta hoặc nên ăn chay hoặc đối xử nhân đạo với động vật của chúng ta trước khi giết chúng.

Điều mang tính cách mạng nhất trong tất cả những điều này chỉ đơn giản là ý tưởng rằng lợi ích của các loài động vật không phải con người được tính đến. Chúng ta thường cho rằng chỉ con người mới đáng được xem xét về mặt đạo đức.

Chủ nghĩa vị lợi thách thức giả định đó và khẳng định rằng cộng đồng đạo đức phải được mở rộng để bao gồm tất cả các sinh vật mà lợi ích của chúng có thể bị ảnh hưởng bởi những gì chúng ta làm. Con người về nhiều mặt là đặc biệt, và một nền đạo đức đầy đủ phải thừa nhận điều đó. Nhưng chúng ta không phải là động vật duy nhất trên hành tinh này, và một nền đạo đức đầy đủ cũng phải thừa nhận sự thật đó.

James Rachels

0 Comments: