Chủ Nghĩa Vị Kỷ Đạo Đức
Đạt được hạnh phúc của mình là mục đích đạo đức cao nhất của con người.
Ayn Rand, ĐỨC TÍNH CỦA SỰ ÍCH KỶ (1961)
5.1. Ta có bổn phận giúp đỡ người chết đói không?
Mỗi năm có hàng triệu người chết vì các vấn đề sức khỏe do suy dinh dưỡng gây ra. Thông thường, những người chết là trẻ em. Mỗi ngày, có khoảng 22.000 trẻ em dưới 5 tuổi tử vong, hầu như luôn do những nguyên nhân có thể phòng ngừa được. Điều này dẫn đến hơn 8 triệu ca tử vong mỗi năm. Ngay cả khi ước tính này quá cao, thì số người chết vẫn quá choáng ngợp.
Nghèo đói đặt ra một vấn đề cấp bách đối với nhiều người trong chúng ta, những người không nghèo. Chúng ta tiêu tiền cho bản thân, không chỉ cho những thứ cần thiết mà còn cho những thứ xa xỉ—DVD, đồ trang sức, vé xem hòa nhạc, iPod, v.v. Ở Mỹ, ngay cả những người có thu nhập khiêm tốn cũng được hưởng những thứ như vậy. Nhưng chúng ta có thể kiêng bỏ những thứ xa xỉ của mình và thay vào đó quyên góp tiền cứu trợ nạn đói. Thực tế là chúng ta không đề nghị rằng chúng ta coi những thứ xa xỉ của mình quan trọng hơn mạng sống của những người chết đói.
Tại sao chúng ta để mọi người chết đói khi chúng ta có thể cứu họ? Rất ít người trong chúng ta thực sự tin rằng những thứ xa xỉ của mình quan trọng đến thế. Hầu hết chúng ta, nếu được đặt câu hỏi trực tiếp, có lẽ sẽ hơi xấu hổ và chúng ta có thể nói rằng mình nên làm nhiều hơn để giúp đỡ. Chúng ta không làm nhiều hơn để giúp đỡ là do chúng ta hiếm khi nghĩ về vấn đề. Sống cuộc sống thoải mái riêng mình, chúng ta được tách khỏi vấn đề đó. Những người chết đói thì chết một nơi nào đó cách xa chúng ta; chúng ta không nhìn thấy họ, và thậm chí chúng ta có thể tránh nghĩ về họ. Khi chúng ta nghĩ về họ, đó chỉ là một cách trừu tượng, như những con số thống kê. Thật đáng tiếc cho những người đói đó, số liệu thống kê có rất ít sức mạnh để lay động chúng ta.
Chúng ta phản ứng khác nhau khi có “khủng hoảng”, chẳng hạn như trận động đất xảy ra ở Nhật Bản vào năm 2011, giết chết hàng nghìn người, gây ra sóng thần và gây ra sự cố nóng chảy tại một số nhà máy điện hạt nhân. Sau đó, cuộc khủng hoảng trở nên tin tức hệ trọng, và các nỗ lực cứu trợ được huy động. Nhưng khi những người nghèo bị phân tán, tình hình dường như không quá cấp bách. 8 triệu trẻ em chết hàng năm có lẽ sẽ được cứu nếu tất cả chúng tập trung lại, chẳng hạn như Chicago.
Nhưng bỏ qua câu hỏi tại sao chúng ta cư xử như vậy, trách nhiệm của chúng ta là gì? Chúng ta nên làm gì ? Cảm thức chung có thể bảo chúng ta cân bằng lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác. Tất nhiên, có thể hiểu được rằng chúng ta quan tâm đến chính mình, và người ta không thể bị khiển trách vì đã quan tâm các nhu cầu cơ bản của họ. Nhưng đồng thời, nhu cầu của người khác cũng quan trọng, và khi chúng ta có thể giúp đỡ người khác—đặc biệt khi ít thiệt cho chính mình—thì chúng ta nên làm như vậy.
Vì vậy, nếu bạn có thêm 10 đô-la và làm từ thiện để giúp cứu sống một đứa trẻ, thì đạo đức cảm thức chung sẽ nói rằng bạn nên làm như vậy. Lối suy nghĩ này giả định rằng chúng ta có bổn phận đối với người khác đơn giản chỉ vì họ là những người có thể được giúp đỡ hoặc bị tổn hại bởi những gì chúng ta làm . Nếu một hành động nào đó có lợi (hoặc có hại) cho người khác, thì đó là lý do tại sao chúng ta nên (hoặc không nên) thực hiện hành động đó. Từ một quan điểm đạo đức, giả định cảm thức chung là lợi ích của người khác được tính đến.
Nhưng cảm thức chung của người này là sự tầm thường ngây thơ của người khác. Một số người tin rằng chúng ta không có nghĩa vụ gì với người khác. Theo quan điểm của họ, được gọi là Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, mỗi người chỉ nên theo đuổi lợi ích cá nhân của mình. Đây là đạo đức của sự ích kỷ. Nó cho rằng nhiệm vụ duy nhất của chúng ta là làm những gì tốt nhất cho bản thân. Những người khác chỉ quan trọng khi họ có thể mang lại lợi ích cho chúng ta.
5.2. Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý
Trước khi thảo luận về Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, chúng ta nên thảo luận về một lý thuyết mà nó thường bị nhầm lẫn với — Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức cho rằng mỗi người nên theo đuổi lợi ích cá nhân của riêng mình. Ngược lại, Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý khẳng định rằng trên thực tế, mỗi người thực sự chỉ theo đuổi lợi ích cá nhân của mình. Như thế, những lý thuyết này là rất khác nhau. Nói rằng người ta tư lợi và nói rằng người lân cận ta sẽ không làm từ thiện là một chuyện. Nói rằng người ta nên tư lợi và nói rằng người lân cận ta không nên làm từ thiện là một điều hoàn toàn khác. Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý đưa ra tuyên bố về bản chất con người, hoặc về cách mọi thứ đang diễn ra; Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức đưa ra tuyên bố về đạo đức, hoặc về cách mọi thứ nên diễn ra.
Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý không phải là một lý thuyết về đạo đức; đúng hơn, nó là một lý thuyết về tâm lý con người. Nhưng các nhà đạo đức học luôn lo lắng về nó. Nếu Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý là đúng, thì bản thân triết học đạo đức sẽ có vẻ vô nghĩa. Rốt cuộc, nếu mọi người cư xử ích kỷ bất kể thế nào, vậy thì thảo luận về những gì họ “nên” làm để làm gì? Dù đó là điều họ “nên” làm, họ sẽ không làm. Có lẽ chúng ta ngây thơ khi nghĩ rằng các lý thuyết đạo đức của chúng ta có thể quan trọng trong thế giới thực.
Lòng vị tha có khả thi không? Khi Thế chiến II bắt đầu, Raoul Wallenberg là một doanh nhân vô danh sống ở Thụy Điển. Thụy Điển là một nơi tốt để trú ẩn trong suốt thời chiến tranh. Là một quốc gia trung lập, không bao giờ bị ném bom, phong tỏa hay xâm lược. Tuy nhiên, vào năm 1944, Wallenberg đã tự nguyện rời Thụy Điển đến Hungary do Đức Quốc xã kiểm soát. Về mặt chính thức, Wallenberg chỉ là một nhà ngoại giao Thụy Điển ở Budapest. Tuy nhiên, nhiệm vụ thực sự của anh là cứu người. Tại Hungary, Hitler đã bắt đầu thực hiện “giải pháp cuối cùng cho vấn đề người Do Thái” của mình: Người Do Thái bị vây bắt, trục xuất và sau đó bị sát hại tại các đồn giết người của Đức Quốc xã. Wallenberg muốn ngăn chặn cuộc tàn sát này.
Wallenberg đã giúp thuyết phục chính phủ Hungary ngừng việc trục xuất. Tuy nhiên, chính phủ Hungary đã sớm bị thay thế bởi một chế độ bù nhìn của Đức Quốc xã, và cuộc giết người hàng loạt lại tiếp tục. Wallenberg sau đó đã cấp "Thẻ bảo vệ người Thụy Điển" cho hàng nghìn người Do Thái, nhấn mạnh rằng tất cả họ đều có mối liên hệ với Thụy Điển và nằm dưới sự bảo vệ của chính phủ của ông. Wallenberg đã giúp nhiều người lẩn trốn. Khi họ bị phát hiện, ông đã đứng giữa họ và Đức quốc xã, nói với quân Đức rằng họ sẽ phải bắn ông trước. Wallenberg đã cứu sống hàng ngàn người. Khi chiến tranh kết thúc, khi sự hỗn loạn lan rộng, ông ở lại trong khi các nhà ngoại giao khác chạy trốn. Sau chiến tranh, Wallenberg biến mất, và trong một thời gian dài số phận của ông không được biết. Bây giờ chúng tôi tin rằng ông đã bị giết, không phải bởi quân Đức, mà bởi Liên Xô, những người đã bỏ tù ông sau khi chiếm Hungary.
Câu chuyện về Wallenberg rất đặc biệt và kịch tính, nhưng nó không phải là duy nhất. Chính phủ Israel công nhận hơn 22.000 người Ngoại Giáo đã mạo hiểm mạng sống của họ để cố gắng cứu người Do Thái khỏi bị sát hại trong Cuộc Tàn Sát Hàng Loạt này. Người Do-thái gọi những người nam nữ này là “Những Người Công Chính Giữa Các Quốc Gia.” Và dù rằng ít người trong chúng ta đã cứu được mạng sống người khác, nhưng những hành động vị tha dường như là phổ biến. Mọi người làm lợi cho nhau. Họ hiến máu. Họ xây dựng nơi ở cho người vô gia cư. Họ làm tình nguyện trong bệnh viện. Họ đọc cho người mù. Nhiều người cho đi tiền của vì những lý do thích đáng. Trong một số trường hợp, số tiền đưa ra là rất to lớn phi thường. Warren Buffett, một doanh nhân người Mỹ, đã trao 37 tỷ đô la cho Quỹ Bill và Melinda Gates để thúc đẩy giáo dục và y tế toàn cầu. Zell Kravinsky, một nhà đầu tư bất động sản người Mỹ, đã tặng toàn bộ tài sản trị giá 45 triệu USD của mình cho hoạt động từ thiện. Kravinsky đã tặng một quả thận của mình cho một người hoàn toàn xa lạ. Oseola McCarty, một phụ nữ Mỹ gốc Phi 87 tuổi đến từ Hattiesburg, Mississippi, đã trao 150.000 đô la để ủng hộ quỹ học bổng tại Đại học Nam Mississippi. Trong 75 năm, bà đã dành dụm tiền từ công việc làm người giúp việc. Bà chưa bao giờ sở hữu một chiếc ô tô, và ở tuổi 87, bà vẫn đi bộ hơn một dặm để đến cửa hàng tạp hóa gần nhất, tự đẩy chiếc xe mua hàng của mình.
Đây là những hành động đáng chú ý, nhưng chúng có nên coi là giá trị bề mặt? Theo Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý, chúng ta có thể tin rằng mình cao thượng và biết hy sinh, nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Trong thực tế, chúng tôi chỉ quan tâm đến bản thân mình. Lý thuyết này có thể đúng không? Tại sao mọi người lại tin vào điều đó, khi đối mặt với rất nhiều bằng chứng ngược lại? Sau đây là hai lập luận thường được đưa ra cho Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý.
Lập luận rằng chúng ta luôn làm những gì chúng ta muốn làm. “Mọi hành động bạn từng thực hiện kể từ ngày bạn sinh ra đều được thực hiện vì bạn muốn một điều gì đó.” Dale Carnegie, tác giả của cuốn sách đầu tiên và hay nhất về tự lực, Đắc Nhân Tâm (1936) đã viết như vậy. Carnegie coi ham muốn là chìa khóa của tâm lý con người. Do đó, khi chúng ta mô tả hành động của một người là vị tha và hành động của người khác là tư lợi, chúng ta có thể bỏ qua thực tế rằng trong mỗi trường hợp, người đó chỉ đơn thuần làm điều mà họ muốn làm nhất. Ví dụ, nếu Raoul Wallenberg chọn đến Hungary, thì anh ta muốn đến đó nhiều hơn là muốn ở lại Thụy Điển – và tại sao anh ta phải được ca ngợi vì lòng vị tha khi anh ta chỉ làm những gì anh ta muốn làm? Hành động của anh ấy bắt nguồn từ những ham muốn của chính anh ấy, từ cảm giác của anh ấy về những gì anh ấy muốn. Vì vậy, anh ta đã bị tác động bởi lợi ích cá nhân của mình. Và vì điều tương tự cũng có thể nói về bất kỳ hành động tử tế nào được cho là tốt như thế, nên chúng ta có thể kết luận rằng Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý phải đúng.
Tuy nhiên, lập luận này có thiếu sót. Có những việc chúng ta làm không phải vì chúng ta muốn mà vì chúng ta cảm thấy mình phải làm. Ví dụ, tôi có thể viết cho bà tôi một lá thư vì tôi đã hứa với mẹ tôi rằng tôi sẽ làm điều đó, mặc dù tôi không muốn làm điều đó. Đôi khi có gợi ý chúng ta làm những việc như vậy vì hầu hết chúng ta muốn giữ lời hứa của mình. Nhưng điều đó không đúng sự thật. Thật sai lầm khi nói mong muốn mãnh liệt nhất của tôi là giữ lời hứa. Điều tôi muốn nhất là thất hứa, nhưng tôi không làm, vì đó như là một vấn đề của lương tâm. Về những gì chúng ta biết, Wallenberg đã ở trong tình thế này: Có lẽ ông muốn ở lại Thụy Điển, nhưng ông cảm thấy rằng mình phải đến Hungary để cứu người. Dù trường hợp nào đi nữa, việc ông ấy chọn đi không có nghĩa là ông ấy muốn làm như vậy nhất.
Lập luận có một lỗ hổng thứ hai. Giả sử chúng ta thừa nhận rằng chúng ta luôn hành động theo mong muốn mãnh liệt nhất của mình. Ngay cả khi điều này là như vậy, thì cũng không có nghĩa là Wallenberg đã hành động vì tư lợi. Vì nếu Wallenberg muốn giúp đỡ người khác, ngay cả khi bản thân anh ta gặp rủi ro lớn, thì đó chính là điều khiến hành vi của anh ta trái ngược với Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý. Việc bạn hành động theo mong muốn của riêng mình không có nghĩa là bạn đang tìm kiếm chính mình; tất cả phụ thuộc vào những gì bạn mong muốn. Nếu bạn chỉ quan tâm đến bản thân và không nghĩ đến người khác, thì bạn đang hành động vì lợi ích cá nhân; nhưng nếu bạn muốn người khác hạnh phúc, và bạn hành động theo mong muốn đó, thì bạn không hạnh phúc. Nói cách khác: Khi đánh giá liệu một hành động có tư lợi hay không, vấn đề không phải là liệu hành động đó có dựa trên mong muốn hay không; vấn đề là nó dựa trên loại ham muốn nào. Nếu bạn muốn giúp đỡ người khác, thì động cơ của bạn là vị tha, không tư lợi.
Do đó, lập luận này sai ở mọi khía cạnh mà một lập luận có thể sai: Tiền đề không đúng—không phải lúc nào chúng ta cũng làm điều chúng ta muốn làm nhất—và ngay cả khi nó đúng, kết luận sẽ không diễn ra theo nó.
Lập luận rằng chúng tôi luôn làm những gì khiến chúng tôi cảm thấy tốt. Lập luận thứ hai cho Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý dựa trên thực tế rằng cái gọi là hành động vị tha tạo ra cảm giác hài lòng về bản thân ở người thực hiện chúng. Hành động “không ích kỷ” khiến mọi người cảm thấy hài lòng về bản thân họ, và đó mới là điểm nổi bật thực tế của hành động đó.
Theo một tờ báo thế kỷ 19, lập luận này được đưa ra bởi Abraham Lincoln. The Springfield, Illinois, Monitor đã báo cáo:
Trên một chiếc xe ngựa chở bùn cũ, Ông Lincoln đã từng nhận xét với một người bạn đồng hành rằng tất cả mọi người đều bị thúc đẩy bởi sự ích kỷ khi làm điều tốt. Người bạn đồng hành của ông ấy đã phản đối quan điểm này khi họ đang đi qua một cây cầu bằng thân cây bắc qua một đầm lầy. Khi đi qua cây cầu này, họ trông thấy một con lợn nái già lưng còng như dao cạo trên bờ kêu inh ỏi vì lũ lợn con của nó đã rơi xuống vũng lầy và có nguy cơ bị chết đuối. Khi chiếc xe ngựa cũ bắt đầu lên dốc, ông Lincoln gọi lớn: “Anh lái xe, Anh không thể dừng lại một chút sao?” Sau đó, ông Lincoln nhảy ra ngoài, chạy ngược lại và nhấc những chú lợn con ra khỏi bùn và nước, rồi đặt chúng lên bờ. Khi ông quay lại, người bạn đồng hành của ông nhận xét: “Này, anh Abe, sự ích kỷ xuất hiện ở đâu trong tình tiết nhỏ này?” “Ồ, chúc phúc cho tâm hồn anh, Ed, đó chính là bản chất của sự ích kỷ. Lẽ ra tôi đã không yên tâm cả ngày nếu cứ tiếp tục và bỏ mặc con lợn nái già lo lắng cho lũ lợn con kia. Tôi làm thế để được thanh thản, anh không thấy sao?”
Trong câu chuyện này, ông Honest Abe sử dụng một chiến thuật lâu đời của Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý: chiến lược diễn giải lại các động cơ. Mọi người đều biết rằng mọi người đôi khi có vẽ như hành động vị tha; nhưng nếu nhìn sâu hơn, chúng ta có thể thấy rằng có điều gì đó khác đang diễn ra. Và thông thường, không khó để phát hiện ra rằng hành vi “không ích kỷ” thực sự có liên quan đến lợi ích nào đó cho người thực hiện hành vi đó. Vì vậy, Lincoln nói về sự an tâm mà ông có được khi giải cứu những chú lợn con.
Các ví dụ khác về lòng vị tha bị cáo buộc cũng có thể được giải thích lại. Theo một số người bạn của Raoul Wallenberg, trước khi đến Hungary, anh ấy đã chán nản và không vui vì cuộc sống của mình không có nhiều ý nghĩa. Vì vậy, anh ấy đã thực hiện những hành động khiến anh ấy trở thành một nhân vật anh hùng. Hành trình tìm kiếm một cuộc sống có ý nghĩa hơn của ông đã thành công ngoạn mục—chúng ta đang ở đây đang nói về ông, hơn 60 năm sau khi ông qua đời. Mẹ Teresa, một nữ tu đã dành cả đời để làm việc cho những người nghèo ở Calcutta, thường được coi là một tấm gương hoàn hảo về lòng vị tha - nhưng, tất nhiên, bà tin rằng mình sẽ được ban thưởng xứng đáng trên thiên đàng. Và đối với Zell Kravinsky, người đã cho đi cả tài sản và một quả thận của mình, bố mẹ anh ấy không bao giờ khen ngợi anh ấy nhiều, vì vậy anh ấy luôn cố gắng làm những điều mà ngay cả họ cũng phải ngưỡng mộ. Bản thân Kravinsky nói rằng, khi bắt đầu cho đi số tiền của mình, anh ấy đã nghĩ đến việc quyên góp như là “một sự đãi ngộ cho bản thân mình. Tôi thực sự nghĩ về nó như một điều gì đó thú vị.”
Bất chấp tất cả những điều này, lập luận của Lincoln thực thiếu sót nghiêm trọng. Có thể đúng là một trong những động cơ của Lincoln trong việc cứu những con lợn là để bảo vệ sự an tâm của chính ông. Nhưng việc Lincoln có động cơ tư lợi không có nghĩa là ông cũng không có động cơ nhân từ. Trên thực tế, mong muốn giúp đỡ những chú lợn của Lincoln có thể còn lớn hơn mong muốn giữ gìn sự bình yên trong tâm hồn của ông. Và nếu điều này không đúng trong trường hợp của Lincoln, thì nó sẽ đúng trong những trường hợp khác: Nếu tôi nhìn thấy một đứa trẻ bị đuối nước, mong muốn giúp đỡ đứa trẻ đó của tôi thường sẽ lớn hơn mong muốn tránh bị cắn rứt lương tâm. Những trường hợp như thế này là những ví dụ ngược lại với Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý.
Trong một số trường hợp của lòng vị tha, chúng ta có thể không có động cơ tư lợi. Ví dụ, vào năm 2007, một công nhân xây dựng 50 tuổi tên là Wesley Autrey đang đợi tàu điện ngầm ở thành phố New York. Autrey nhìn thấy một người nam giới gần mình gục xuống, cơ thể co giật. Người nam giới đứng dậy, bị vấp vào mép sân ga và ngã xuống đường ray xe lửa. Đúng lúc đó, đèn pha của một đoàn tàu xuất hiện. “Tôi đã phải đưa ra quyết định trong một phần giây”, Autrey kể lại. Sau đó, anh ta nhảy lên đường ray và nằm đè lên người nam giới, ấn anh ta xuống một khoảng sâu một foot. Phanh của đoàn tàu rít lên, nhưng không thể dừng lại kịp thời. Mọi người trên sân ga hét lên. Năm chiếc ô tô chạy qua che chắn họ. Khi những người chứng kiến nhận ra rằng cả hai người nam giới đều an toàn, họ đã vỗ tay tán thưởng. Autrey sau đó nói rằng: “Tôi chỉ thấy một người cần giúp đỡ.” Autrey đã cứu mạng người nam giới đó, anh không bao giờ nghĩ đến hạnh phúc của chính mình.
Ở đây có một bài học chung liên quan đến bản chất của mong muốn. Chúng ta muốn đủ thứ - tiền bạc, bạn bè, danh tiếng, xe hơi mới, v.v. - và vì ham muốn những thứ này nên chúng ta có thể cảm thấy hài lòng khi có được chúng. Nhưng đối tượng của ham muốn của chúng ta thường không phải là cảm giác hài lòng - nó không phải là điều chúng ta theo đuổi. Những gì chúng ta muốn chỉ đơn giản là tiền bạc, bạn bè, danh vọng và xe hơi. Việc giúp đỡ người khác cũng vậy. Mong muốn giúp đỡ người khác của chúng ta thường đến trước; những cảm giác tốt đẹp mà chúng ta có thể có được chỉ là một phụ phẩm.
Kết luận về Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý. Nếu Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý không thể tin được, thì tại sao lại có rất nhiều người thông minh bị thu hút bởi nó? Một số người thích quan điểm hoài nghi của lý thuyết về bản chất con người. Những người khác có thể thích sự đơn giản của nó. Và, thực sự, sẽ rất dễ chịu nếu một yếu tố duy nhất có thể giải thích mọi hành vi của con người. Nhưng con người dường như lại quá phức tạp cho điều đó. Vậy, chủ nghĩa vị kỷ tâm lý không phải là một lý thuyết đáng tin cậy.
Do đó, đạo đức không có gì phải sợ Chủ nghĩa vị kỷ tâm lý. Vì chúng ta có thể cảm động khi quan tâm đến người khác, không phải là vô ích khi nói về việc chúng ta có nên giúp đỡ người lân cận hay không. Lý thuyết hóa đạo đức không nhất thiết phải là một nỗ lực ngây thơ, dựa trên một quan điểm phi thực tế về bản chất con người.
5.3. Ba lập luận cho chủ nghĩa vị kỷ đạo đức
Một lần nữa, chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là học thuyết cho rằng mỗi người chỉ nên theo đuổi lợi ích cá nhân của mình. Đây không phải là ý tưởng cảm thức chung cho rằng một người nên thúc đẩy lợi ích của chính mình bên cạnh lợi ích của người khác. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là ý tưởng cấp tiến cho rằng nguyên tắc tư lợi giải thích cho tất cả các nghĩa vụ của một người.
Tuy nhiên, chủ nghĩa vị kỷ đạo đức không bảo bạn tránh giúp đỡ người khác. Đôi khi lợi ích của bạn sẽ trùng khớp với phúc lợi của người khác, vì vậy giúp đỡ chính mình, bạn cũng sẽ giúp đỡ người khác. Ví dụ, nếu bạn có thể thuyết phục giáo viên của mình hủy bỏ bài tập, điều này sẽ có lợi cho bạn và các bạn cùng lớp. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức không cấm những hành động như vậy; trên thực tế, nó có thể gợi ý những việc đó. Lý thuyết chỉ khẳng định rằng trong những trường hợp như vậy, lợi ích cho người khác không phải là điều làm cho hành động nên đúng đắn. Thay vào đó, hành động đúng vì nó có lợi cho riêng bạn.
Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức cũng không ngụ ý rằng khi theo đuổi sở thích của mình, bạn phải luôn làm những gì bạn muốn hoặc những gì mang lại cho bạn niềm vui ngắn hạn nhất. Ai đó muốn hút thuốc lá, hoặc đặt cược tất cả số tiền của mình tại trường đua ngựa, hoặc thành lập một phòng thí nghiệm ma tuý đá trong tầng hầm của mình. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức sẽ không đồng ý với tất cả những điều này, bất chấp những lợi ích ngắn hạn này. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức nói rằng một người nên làm những gì thực sự vì lợi ích tốt nhất của mình, về lâu dài. Nó tán thành sự ích kỷ, chứ không phải dại dột.
Bây giờ chúng ta hãy thảo luận ba lập luận chính cho Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức.
Lập luận rằng lòng vị tha là tự thất bại. Lập luận đầu tiên có một số biến tấu:
• Mỗi chúng ta đều quen thuộc với những mong muốn và nhu cầu cá nhân của mình. Hơn nữa, mỗi chúng ta đều được sắp đặt để theo đuổi những mong muốn và nhu cầu đó một cách hiệu quả. Đồng thời, chúng ta chỉ hiểu những mong muốn và nhu cầu của người khác một cách không hoàn hảo và chúng ta không có đủ điều kiện để theo đuổi chúng. Vì vậy, nếu cố gắng làm “người trông nom em mình”, chúng ta thường làm hỏng việc và cuối cùng gây hại nhiều hơn lợi.
• Đồng thời, chính sách “quan tâm đến người khác” là hành vi xâm phạm xúc phạm đến quyền riêng tư của người khác; về cơ bản nó là một chính sách quan tâm đến việc của người khác.
• Biến người khác thành đối tượng “từ thiện” của mình là hạ thấp phẩm giá của họ; việc này cướp đi nhân phẩm và lòng tự trọng của họ. Trên thực tế, việc đề nghị từ thiện nói rằng họ không có khả năng tự chăm sóc bản thân; và việc bày tỏ đó là tự mãn. Họ không còn tự lực và trở nên phụ thuộc thụ động vào người khác. Đó là lý do tại sao những người nhận “từ thiện” thường bực bội hơn là biết ơn.
Trong từng trường hợp, chính sách “quan tâm đến người khác” được cho là tự chuốc lấy thất bại. Nếu chúng ta muốn làm những gì tốt nhất cho mọi người, chúng ta không nên áp dụng cái gọi là chính sách vị tha. Ngược lại, nếu mỗi người chăm lo cho lợi ích của mình thì mọi người sẽ tốt hơn.
Có thể phản đối lập luận này trên một số cơ sở. Tất nhiên, không ai ưa thích sự vụng về, xen ngang vào hoặc tước đi lòng tự trọng của mọi người. Nhưng đó có thực sự là những gì đang diễn ra khi chúng ta cho những đứa trẻ đang đói ăn không? Liệu đứa trẻ chết đói ở Niger có thực sự bị tổn hại khi chúng ta “xâm phạm” vào “việc của nó” bằng cách cho nó ăn? Hầu như không thể. Tuy nhiên, chúng ta có thể gạt quan điểm này đi, vì lối suy nghĩ này thậm chí còn có một khiếm khuyết nghiêm trọng hơn thế.
Vấn đề là nó không thực sự là một lập luận cho Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Lập luận kết luận rằng chúng ta nên áp dụng một số chính sách hành vi nhất định, và nhìn bề ngoài, chúng có vẻ là những chính sách vị kỷ. Tuy nhiên, lý do chúng ta nên áp dụng những chính sách đó thì là rõ ràng không vị kỷ. Người ta nói rằng việc áp dụng những chính sách đó sẽ thúc đẩy xã hội trở nên tốt đẹp hơn—nhưng theo Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, điều đó không phải là điều chúng ta nên quan tâm. Giải thích đầy đủ, lập luận như sau:
(1) Chúng ta nên làm bất cứ điều gì có thể thúc đẩy lợi ích của mọi người một cách tốt nhất.
(2) Cách tốt nhất để thúc đẩy lợi ích của mọi người là mỗi chúng ta chỉ theo đuổi lợi ích của riêng mình.
(3) Vì vậy, mỗi người chúng ta chỉ nên theo đuổi lợi ích của riêng mình.
Nếu chúng ta chấp nhận lập luận này, thì chúng ta không phải là những người theo chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Mặc dù chúng ta có thể cư xử như những người ích kỷ, nhưng nguyên tắc cơ bản của chúng ta là vì lợi ích—chúng ta đang cố gắng giúp đỡ mọi người chứ không chỉ bản thân mình. Thay vì ích kỷ, chúng ta trở thành những người vị tha với quan điểm đặc biệt về những gì thúc đẩy phúc lợi chung.
Lập luận của Ayn Rand. Ayn Rand (1905–1982) không được các triết gia nghiên cứu nhiều. Những ý tưởng gắn liền với tên tuổi của bà - rằng chủ nghĩa tư bản là một hệ thống kinh tế vượt trội về mặt đạo đức và rằng đạo đức đòi hỏi sự tôn trọng tuyệt đối đối với quyền của các cá nhân - được các nhà văn khác phát triển nghiêm ngặt hơn. Tuy nhiên, bà là một nhân vật lôi cuốn, bà đã thu hút một lượng người theo dõi nhiệt tình trong suốt cuộc đời của mình. Ngày nay, khoảng 30 năm sau khi bà qua đời, ngành công nghiệp Ayn Rand vẫn phát triển mạnh mẽ. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức gắn liền với bà hơn bất kỳ nhà văn nào ở thế kỷ 20.
Ayn Rand coi “đạo đức của lòng vị tha” là một ý tưởng hoàn toàn có tính hủy hoại, đối với toàn xã hội nói chung và đối với cuộc sống của những người bị ảnh hưởng bởi nó. Lòng vị tha, theo cách nghĩ của bà, dẫn đến sự phủ nhận giá trị của cá nhân. Nó nói với một người: Cuộc sống của bạn chỉ đơn thuần là một thứ gì đó để hy sinh. Bà viết: “Nếu một người nam giới chấp nhận đạo đức của lòng vị tha, thì mối quan tâm đầu tiên của anh ta không phải là sống cuộc đời của mình như thế nào, mà là hy sinh nó như thế nào”. Những người đề cao đạo đức của lòng vị tha đều bị khinh miệt—họ là những kẻ ăn bám, thay vì làm việc để xây dựng và duy trì cuộc sống của chính mình, lại ăn bám những người làm việc vị tha. Rand tiếp tục:
Những kẻ ăn bám, lười biếng, cướp bóc, vũ phu và côn đồ có thể không có giá trị gì đối với một con người—anh ấy cũng không thể thu được lợi ích gì khi sống trong một xã hội hướng đến nhu cầu, đòi hỏi và bảo vệ của những kẻ trên, một xã hội coi anh ấy như một con vật hiến tế và trừng phạt anh vì những đức tính của anh nhằm để thưởng cho họ (những kẻ trên) vì những thói xấu của họ (ăn bám, lười biếng…), nghĩa là: một xã hội dựa trên đạo đức của lòng vị tha.
Bằng cách “hy sinh đời sống của một người,” Rand không có ý gì quá bi thảm như cái chết. Cuộc sống của một người bao gồm, một phần, các kế hoạch được thực hiện và tài sản kiếm được và tạo ra. Do đó, yêu cầu một người từ bỏ các kế hoạch của mình hoặc từ bỏ tài sản của mình là yêu cầu người đó “hy sinh cuộc sống của mình”.
Rand cũng gợi ý rằng có một cơ sở siêu hình cho Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Bằng cách nào đó, nó là nền đạo đức duy nhất coi trọng thực tế của từng cá nhân. Bà than tiếc “mức độ to lớn mà lòng vị tha làm xói mòn khả năng nắm lấy của con người. . . giá trị của đời sống cá nhân; nó bộc lộ một tâm trí mà từ đó thực tại của một người đã bị xóa sổ.”
Vậy còn những đứa trẻ đói thì sao? Có thể nói rằng bản thân Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức “bộc lộ một tâm trí mà từ đó thực tại của một con người đã bị xóa sổ,” cụ thể là con người đang chết đói. Rand tán thành trích dẫn câu trả lời của một người học trò của bà: “Một lần, khi Barbara Brandon được một sinh viên hỏi: 'Điều gì sẽ xảy ra với người nghèo . . . ?' cô ấy trả lời: 'Nếu bạn muốn giúp họ, bạn sẽ không bị ngăn cản.'”
Tất cả những nhận xét này là một phần của một lập luận liên tục diễn ra như thế này:
(1) Mỗi người chỉ có một đời để sống. Nếu chúng ta coi trọng cá nhân, thì chúng ta phải đồng ý rằng cuộc sống này là vô cùng quan trọng. Cuối cùng, đó là tất cả những gì một người có, và tất cả những gì một người là.
(2) Đạo đức của chủ nghĩa vị tha coi cuộc sống của cá nhân là thứ có thể hy sinh vì lợi ích của người khác. Do đó, đạo đức vị tha không coi trọng giá trị của cá nhân.
(3) Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, cho phép mỗi người coi cuộc sống của chính mình là giá trị tối thượng, thực sự coi trọng cá nhân - trên thực tế, nó là triết lý duy nhất thực hiện như vậy.
(4) Như vậy, Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là triết lý mà chúng ta phải chấp nhận.
Một vấn đề với lập luận này, như bạn có thể thấy, là nó giả định rằng chúng ta chỉ có hai lựa chọn: Hoặc chúng ta chấp nhận đạo đức của chủ nghĩa vị tha, hoặc chúng ta chấp nhận Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Sau đó, việc chọn lựa có vẻ hiển nhiên bằng cách miêu tả đạo đức của lòng vị tha như một học thuyết điên rồ mà chỉ có kẻ ngốc mới chấp nhận. Đạo đức của lòng vị tha được xem là quan điểm mà lợi ích của bản thân không có giá trị và người ta phải sẵn sàng hy sinh hoàn toàn bản thân bất cứ khi nào có ai yêu cầu. Nếu đây là sự lựa chọn thay thế, thì bất kỳ quan điểm nào khác, kể cả Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, sẽ có vẻ tốt khi so sánh.
Nhưng đó không phải là một bức tranh công bằng về các lựa chọn. Cái mà chúng ta gọi là quan điểm thường tình thì đứng giữa hai thái cực. Nó nói rằng lợi ích của chính mình và lợi ích của người khác đều quan trọng và phải được cân bằng với nhau. Đôi khi, một người nên hành động vì lợi ích của người khác; những lúc khác, người ta nên tự chăm sóc bản thân. Vì vậy, thậm chí nếu chúng ta từ chối đạo đức cực đoan của chủ nghĩa vị tha, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận thái cực khác của Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Ở đây có một nền tảng trung gian giữa hai thái cực.
Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức tương thích với Đạo đức cảm thức chung. Lập luận thứ ba có cách tiếp cận khác. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức thường được trình bày như một triết học đạo đức theo chủ nghĩa xét lại , nghĩa là, như một triết học cho rằng quan điểm Đạo đức cảm thức chung của chúng ta là sai lầm. Tuy nhiên, có thể giải thích Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức như một lý thuyết chấp nhận Đạo đức cảm thức chung.
Cách giải thích này diễn ra như sau: Đạo đức thông thường bao gồm việc tuân theo các quy tắc nhất định. Chúng ta phải nói sự thật, giữ lời hứa, tránh làm hại người khác, v.v. Thoạt nhìn, những nghĩa vụ này dường như có ít điểm chung—chúng chỉ là một loạt các quy tắc rời rạc. Tuy nhiên, có thể có một sự thống nhất cho chúng. Những người theo chủ nghĩa vị kỷ đạo đức sẽ nói rằng tất cả những nghĩa vụ này cuối cùng đều bắt nguồn từ một nguyên tắc cơ bản là tư lợi.
Hiểu theo cách này, Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức không phải là một học thuyết cấp tiến như vậy. Nó không thách thức Đạo đức cảm thức chung; nó chỉ cố gắng giải thích và hệ thống hóa nó. Và nó làm tốt một cách đáng ngạc nhiên. Nó có thể đưa ra những lời giải thích hợp lý về các nghĩa vụ được đề cập ở trên và hơn thế nữa:
• Nghĩa vụ không làm hại người: Nếu mình làm điều hại người, người khác sẽ không quan tâm làm điều hại mình. Chúng ta sẽ bị xa lánh và khinh thường; người khác sẽ không là bạn của chúng ta và sẽ không giúp đỡ chúng ta khi chúng ta cần. Nếu hành vi phạm tội của chúng ta đủ nghiêm trọng, chúng ta có thể phải ngồi tù. Vì vậy, đó là lợi ích của chúng ta để tránh làm hại người khác.
• Nghĩa vụ không được nói dối: Nếu chúng ta nói dối người khác, chúng ta sẽ chịu mọi hậu quả tai tiếng. Mọi người sẽ không tin tưởng chúng ta và tránh làm ăn với chúng ta. Mọi người sẽ không trung thực với chúng ta khi họ nhận ra rằng chúng ta đã không trung thực với họ. Vì vậy, chúng ta có lợi khi trung thực.
• Nghĩa vụ giữ lời hứa: Chúng ta có lợi khi tham gia vào các thỏa thuận cùng có lợi với người khác. Để được lợi ích từ những thoả thuận đó, chúng ta cần có khả năng dựa vào người khác để giữ lời hứa của họ. Nhưng chúng ta khó có thể mong họ làm được điều đó nếu chúng ta không giữ lời hứa với họ. Vì vậy, từ quan điểm của lợi ích cá nhân, chúng ta nên giữ lời hứa của mình.
Theo đuổi dòng lập luận này, Thomas Hobbes (1588–1679) gợi ý rằng nguyên tắc của Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức dẫn đến Quy tắc Vàng: Chúng ta nên “làm cho người khác” bởi vì nếu chúng ta làm như vậy, người khác sẽ có nhiều khả năng “làm cho chúng ta hơn”.
Liệu lập luận này có thành công trong việc thiết lập Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức như một lý thuyết khả thi về đạo đức không? Nó có thể là cách thử tốt nhất. Tuy nhiên, có hai vấn đề nghiêm trọng với nó. Đầu tiên, lập luận không chứng minh được nhiều như nó cần. Nó chỉ cho thấy rằng việc nói sự thật, giữ lời hứa và tránh làm hại người khác phần lớn là có lợi cho một người. Nhưng một tình huống có thể nảy sinh trong đó bạn có thể có lợi từ việc làm điều gì đó kinh khủng, chẳng hạn như giết người. Trong trường hợp như vậy, Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức không thể giải thích tại sao bạn không nên làm điều kinh khủng. Vì vậy, có vẻ như một số nghĩa vụ đạo đức của chúng ta không thể bắt nguồn từ tư lợi.
Thứ hai, giả sử đúng là quyên góp tiền để cứu trợ nạn đói thì bằng cách nào đó có lợi cho chính mình. Nó không có nghĩa rằng đây là lý do duy nhất để làm như vậy. Một lý do khác có thể là để giúp đỡ những người đang chết đói. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức nói rằng tư lợi là lý do duy nhất để giúp đỡ người khác, nhưng không có gì trong lập luận hiện tại thực sự ủng hộ điều đó.
5.4. Ba lập luận chống lại chủ nghĩa vị kỷ đạo đức
Lập luận rằng chủ nghĩa vị kỷ đạo đức ủng hộ việc ác. Hãy xem xét những hành động độc ác sau, được lấy từ nhiều câu chuyện trên báo: Để kiếm tiền nhiều hơn, một dược sĩ kê đơn cho bệnh nhân ung thư bằng cách sử dụng thuốc pha loãng. Một nhân viên y tế tiêm cho bệnh nhân cấp cứu nước vô trùng thay vì morphine để anh ta có thể bán morphine. Cha mẹ cho em bé ăn axit để họ có thể làm giả một vụ kiện, cho rằng sữa của em bé bị nhiễm độc. Nữ y tá cưỡng hiếp hai bệnh nhân khi họ bất tỉnh. Một người nam giới 73 tuổi nhốt con gái mình trong hầm suốt 24 năm và có 7 đứa con với cô. Một người nam giới 60 tuổi bắn bảy phát đạn vào người đưa thư của mình vì mắc nợ 90.000 đô la và nghĩ rằng ở trong nhà tù liên bang sẽ tốt hơn là vô gia cư.
Giả sử ai đó thực sự có thể thu lợi bằng cách làm những việc như vậy. Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức có phải tán thành những hành động như vậy không? Điều này dường như đủ để làm mất uy tín của học thuyết. Tuy nhiên, sự phản đối này có thể không công bằng với Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, bởi vì khi nói rằng những hành động này là độc ác, nó thừa nhận một quan niệm phi vị kỷ về cái ác. Do đó, một số triết gia đã cố gắng chỉ ra rằng có những vấn đề logic sâu sắc hơn với Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Lập luận sau đây rất điển hình của các đề xuất như vậy.
Lập luận rằng Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là mâu thuẫn về mặt logic. Trong cuốn sách Quan điểm đạo đức (1958), Kurt Baier lập luận rằng Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức không thể đúng, trên cơ sở thuần túy logic. Baier cho rằng lý thuyết dẫn đến mâu thuẫn. Nếu điều này là đúng, thì Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức thực sự sai lầm, vì không lý thuyết nào có thể đúng nếu nó mâu thuẫn với chính nó.
Baier nói, giả sử có hai người tranh cử tổng thống. Hãy gọi họ là “D” và “R,” viết tắt của “Democrat” và “Republican.” Bởi vì chiến thắng sẽ có lợi cho D, nên việc giết R sẽ có lợi cho D. Từ đó, theo Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức, D phải giết R—nghĩa vụ đạo đức của D là phải làm như vậy. Nhưng cũng đúng là R còn sống là vì lợi ích của R. Từ đó, R phải ngăn D giết mình - đó là nhiệm vụ của R. Bây giờ mới là vấn đề. Khi R bảo vệ mình khỏi D, hành động của cô ấy vừa sai vừa không sai—sai vì nó ngăn cản D thực hiện nghĩa vụ của mình, và không sai vì đó là lợi ích tốt nhất của R. Nhưng cùng một hành động không thể vừa sai về mặt đạo đức và vừa không sai về mặt đạo đức.
Lập luận này có bác bỏ Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức không? Thoạt nhìn, nó có vẻ thuyết phục. Tuy nhiên, nó rất phức tạp, vì vậy chúng ta cần tách nó ra với từng bước được xác định riêng. Sau đó, chúng tôi sẽ ở một vị trí tốt hơn để đánh giá nó. Đánh vần đầy đủ, nó diễn ra như thế này:
(1) Giả sử nhiệm vụ của mỗi người là làm những gì có lợi nhất cho mình.
(2) Lợi ích tốt nhất của D là giết R để D thắng cử.
(3) Lợi ích tốt nhất của R là ngăn D giết mình.
(4) Do đó, nghĩa vụ của D là giết R, và nhiệm vụ của R là ngăn cản D làm việc đó.
(5) Nhưng cản trở ai đó làm nhiệm vụ của mình là sai.
(6) Vì vậy, R sai khi ngăn cản D giết R.
(7) Vì vậy, việc R ngăn cản D giết mình vừa là sai và vừa không sai.
(8) Nhưng không có hành động nào có thể sai và không sai; đó là một mâu thuẫn.
(9) Do đó, giả định mà chúng ta bắt đầu—rằng nhiệm vụ của mỗi người là làm những gì có lợi nhất cho mình—không thể đúng.
Khi lập luận được đặt ra theo cách này, chúng ta có thể thấy khuyết điểm tiềm ẩn của nó. Mâu thuẫn logic - rằng việc R ngăn D giết R là sai và không sai - không đơn giản tuân theo nguyên tắc Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức như đã nêu ở bước (1). Nó xuất phát từ nguyên tắc đó cùng với tiền đề được thể hiện ở bước (5), cụ thể là “ngăn cản ai đó thực hiện nghĩa vụ của mình là sai trái”. Bằng cách đưa bước (5) vào lập luận, Baier đã thêm giả định của riêng mình.
Vì vậy, chúng ta không cần phải từ chối Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Thay vào đó, chúng ta có thể đơn giản bác bỏ tiền đề bổ sung này và do đó tránh được mâu thuẫn. Đó chắc chắn là điều mà người theo Chủ nghĩa vị kỷ có đạo đức sẽ làm, vì người theo Chủ nghĩa vị kỷ có đạo đức sẽ không bao giờ nói, nếu không có khả năng, rằng việc ngăn cản ai đó thực hiện nghĩa vụ của mình luôn là sai. Thay vào đó, anh ấy sẽ nói rằng việc một người có nên ngăn cản ai đó thực hiện nghĩa vụ của mình hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc liệu làm như vậy có mang lại lợi ích cho chính người đó hay không. Bất kể chúng ta có thích ý tưởng này hay không, thì ít nhất đó là điều mà người theo Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức sẽ nói vậy. Và do đó, nỗ lực kết tội người vị kỷ về sự mâu thuẫn với bản thân thì thất bại.
Lập luận rằng chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là tùy tiện không thể chấp nhận được. Lập luận này có thể bác bỏ Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức. Ít nhất đó là lập luận sâu sắc nhất mà chúng ta sẽ xem xét, bởi vì nó cố gắng giải thích tại sao lợi ích của người khác lại quan trọng đối với chúng ta. Nhưng trước khi trình bày lập luận này, chúng ta cần nhìn vào một điểm chung về các giá trị đạo đức.
Có cả một nhóm quan điểm đạo đức với điểm chung này: Họ chia mọi người thành các nhóm và nói rằng lợi ích của một số nhóm quan trọng hơn lợi ích của các nhóm khác. Phân biệt chủng tộc là ví dụ dễ thấy nhất. Những kẻ phân biệt chủng tộc chia mọi người thành các nhóm theo chủng tộc và gán tầm quan trọng lớn hơn cho sự thịnh vượng của một chủng tộc hơn là sự thịnh vượng của các chủng tộc khác. Tất cả các hình thức phân biệt đối xử đều hoạt động giống như vậy—bài Do Thái, chủ nghĩa dân tộc, phân biệt giới tính, phân biệt tuổi tác, v.v. Trên thực tế, những người có thái độ như vậy sẽ nghĩ rằng “ Chủng tộc của tôi quan trọng hơn,” hoặc “Những người tin vào tôn giáo của tôi quan trọng hơn,” hoặc “ Đất nước của tôi quan trọng hơn,” v.v.
Những ý tưởng như vậy có thể được bảo vệ không? Những người chấp nhận quan điểm như vậy thường không đưa ra lý lẽ cho họ—ví dụ như những người phân biệt chủng tộc hiếm khi cố gắng đưa ra lời biện minh hợp lý cho sự phân biệt chủng tộc. Nhưng giả sử họ đã làm. Họ có thể nói gì?
Có một nguyên tắc chung cản trở bất kỳ biện minh nào như vậy. Gọi đó là Nguyên tắc Đối xử Bình đẳng: Chúng ta nên đối xử với mọi người theo cùng một cách, trừ khi có lý do chính đáng để không làm như vậy. Ví dụ, giả sử chúng ta đang xem xét có nên nhận hai sinh viên vào trường luật hay không. Nếu cả hai sinh viên đều tốt nghiệp đại học loại xuất sắc và đạt điểm cao trong kỳ thi tuyển sinh—nếu cả hai đều có trình độ như nhau—thì việc nhận người này mà không nhận người kia là tùy tiện. Tuy nhiên, nếu một người tốt nghiệp xuất sắc và đạt điểm cao trong kỳ thi tuyển sinh trong khi người kia bỏ học đại học và chưa bao giờ thi, thì có thể chấp nhận sinh viên thứ nhất chứ không phải sinh viên thứ hai.
Về cơ bản, Nguyên tắc Đối xử Bình đẳng là một nguyên tắc đòi hỏi sự công bằng trong cách chúng ta đối xử với những người khác: những trường hợp giống nhau nên được đối xử như nhau và chỉ những trường hợp không giống nhau mới được đối xử khác biệt. Hai điểm này nên được thực hiện về nguyên tắc. Đầu tiên là đối xử với mọi người theo cùng một cách không phải lúc nào cũng có nghĩa là đảm bảo kết quả tương tự cho họ. Trong Chiến tranh Việt Nam, những thanh niên Mỹ rất muốn tránh bị gọi nhập ngũ, và chính phủ phải quyết định thứ tự các ban quân dịch sẽ gọi người nhập ngũ. Năm 1969, “xổ số dự thảo” đầu tiên được truyền hình cho khán giả cả nước. Đây là cách nó hoạt động: Các ngày trong năm được viết trên 366 tờ giấy (một tờ cho ngày 29 tháng 2) và được nhét vào những viên nang nhựa màu xanh. Những viên nang đó được đặt trong lọ thủy tinh và trộn đều. Sau đó, từng viên một được rút ra. Lần đầu tiên là vào ngày 14 tháng 9—những nam thanh niên có ngày sinh đó, từ 18–26 tuổi, sẽ được nhập ngũ trước. Những người trúng xổ số sinh ngày 8 tháng 6, được bốc thăm cuối cùng. Những thanh niên này chưa bao giờ phải nhập ngũ. Trong ký túc xá đại học, các nhóm sinh viên xem trực tiếp các bức vẽ, và rất dễ dàng để biết được sinh nhật của ai vừa đến - ai vừa rên rỉ hay chửi thề. Rõ ràng, kết quả là khác nhau: Cuối cùng, một số người đã được soạn trước và người khác thì không. Tuy nhiên, quá trình này là công bằng. Bằng cách cho mọi người cơ hội bình đẳng trong xổ số, chính phủ đối xử với mọi người theo cùng một cách như nhau.
Điểm thứ hai liên quan đến phạm vi của nguyên tắc, hoặc những tình huống nó áp dụng cho. Giả sử bạn không sử dụng vé xem trận đấu lớn, vì vậy bạn đưa nó cho một người bạn. Khi làm như vậy, bạn đang đối xử với bạn của mình tốt hơn những người khác mà lẽ ra bạn có thể đưa cho họ tấm vé đó. Hành động của bạn có vi phạm Nguyên tắc đối xử bình đẳng không? Có cần biện minh không? Các nhà triết học đạo đức không đồng ý với câu hỏi này. Một số người cho rằng nguyên tắc này không áp dụng cho những trường hợp như thế này. Nguyên tắc này chỉ áp dụng trong “bối cảnh đạo đức” và bạn nên làm gì với tấm vé của mình không đủ quan trọng để được coi là một câu hỏi đạo đức. Những người khác nghĩ rằng hành động của bạn cần có sự biện minh và có thể đưa ra nhiều lời biện minh khác nhau. Hành động của bạn có thể được biện minh bởi bản chất của tình bạn; hoặc bởi thực tế là bạn không thể tổ chức xổ số vào phút cuối cho tất cả những người hâm mộ không có vé; hoặc thực tế là bạn sở hữu tấm vé, vì vậy bạn có thể làm những gì bạn muốn với nó. Theo quan điểm của chúng tôi, việc Nguyên tắc Đối xử Bình đẳng chỉ áp dụng trong cái gọi là “bối cảnh đạo đức” hay không thì không quan trọng. Chỉ cần nói rằng mọi người đều chấp nhận nguyên tắc này, dù theo cách giải thích này hay cách giải thích khác. Mọi người đều tin vào việc đối xử với mọi người như nhau, trừ khi thực tế yêu cầu khác.
Bây giờ chúng ta hãy áp dụng nguyên tắc đó để phân biệt chủng tộc. Chẳng hạn, một người phân biệt chủng tộc có thể chỉ ra bất kỳ sự khác biệt nào giữa người da trắng và người da đen để biện minh cho việc đối xử khác biệt với họ không? Trước đây, những kẻ phân biệt chủng tộc đôi khi cố gắng làm điều này bằng cách miêu tả người da đen là những người lười biếng, kém thông minh và hay nguy hiểm. Khi làm như vậy, những người phân biệt chủng tộc cho thấy rằng ngay cả khi họ chấp nhận Nguyên tắc Đối xử Bình đẳng— mục đích của những định kiến như vậy là đưa ra “những lý do chính đáng” cần thiết để biện minh cho sự khác biệt trong cách đối xử. Nếu những lời buộc tội như vậy là đúng, thì sự đối xử khác biệt sẽ được biện minh trong một số trường hợp. Nhưng, tất nhiên, chúng không đúng; không có sự khác biệt như vậy giữa các chủng tộc. Do đó, phân biệt chủng tộc là một học thuyết độc đoán—chủ trương đối xử khác biệt với mọi người mặc dù không có lý do chính đáng nào để làm như vậy.
Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là một lý thuyết đạo đức cùng loại đó. Nó ủng hộ việc chia thế giới thành hai loại người – chính chúng ta và những người khác – và nó thôi thúc chúng ta coi lợi ích của những người thuộc nhóm thứ nhất quan trọng hơn lợi ích của những người thuộc nhóm thứ hai. Nhưng mỗi người chúng ta có thể hỏi: Đâu là sự khác biệt giữa tôi và những người khác để biện minh cho việc xếp mình vào loại đặc biệt này? Tôi có thông minh hơn không? Thành tích của tôi có lớn hơn không? Tôi có tận hưởng cuộc sống nhiều hơn không? Nhu cầu và khả năng của tôi có khác với nhu cầu và khả năng của người khác không? Tóm lại, điều gì khiến tôi trở nên đặc biệt? Không trả lời được, hóa ra Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức là một học thuyết tùy tiện, giống như cách phân biệt chủng tộc là tùy tiện. Cả hai học thuyết đều vi phạm Nguyên tắc đối xử bình đẳng.
Vì vậy, chúng ta nên quan tâm đến lợi ích của người khác vì nhu cầu và mong muốn của họ có thể so sánh với nhu cầu và mong muốn của chúng ta. Một lần cuối, hãy xem xét những đứa trẻ đang chết đói mà chúng ta có thể nuôi sống bằng cách từ bỏ một số thứ xa xỉ của chúng ta. Tại sao chúng ta nên quan tâm đến họ? Dĩ nhiên, chúng ta quan tâm đến bản thân—nếu chúng ta chết đói, chúng ta sẽ làm hầu hết mọi thứ để có thức ăn. Nhưng sự khác biệt giữa chúng ta và họ là gì? Cái đói có ảnh hưởng đến họ ít hơn không? Có phải họ ít xứng đáng hơn chúng ta? Nếu chúng ta không thể tìm thấy sự khác biệt có liên quan nào giữa chúng ta và họ, thì chúng ta phải thừa nhận rằng, nếu nhu cầu của chúng ta được đáp ứng, thì nhu cầu của họ cũng vậy. Việc nhận thức này—rằng chúng ta ngang hàng với nhau—là lý do sâu xa nhất giải thích tại sao đạo đức của chúng ta phải nhận ra nhu cầu của người khác. Và cuối cùng đó là lý do tại sao Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức thì thất bại với tư cách là một lý thuyết đạo đức.
James Rachels
0 Comments:
Không cho phép có nhận xét mới.