Chủ Nghĩa Duy Thể Trong Đạo Đức
3.1 ý tưởng cơ bản của chủ nghĩa chủ quan.
Năm 2001 có một cuộc bầu cử thị trưởng ở New York, trong lúc diễn ra cuộc diễu hành sự kiện ngày tự hào đồng tính của thành phố, mọi ứng viên đảng dân chủ và đảng cộng hòa đều xuất hiện để diễu hành. Matt Foreman giám đốc của một tổ chức người đồng tính, đã mô tả các ứng cử viên tại cuộc diễu hành là, “tốt về mọi phương diện”. Anh ấy nói ở những khu vực khác của đất nước, các vị trí được đảm nhận ở đây sẽ không được ưa chuộng, nếu không phải cho là gây tai hại ở các cuộc thăm dò. Đảng cộng hòa quốc gia dường như đồng ý trong nhiều thập kỷ, nó đã phản đối phong trào quyền của người đồng tính.
Mọi người trên khắp nước mỹ thực sự họ đã nghĩ gì? Từ năm 2001 Gallup Poll đã hỏi người dân mỹ xem cá nhân họ tin rằng quan hệ đồng tính là chấp nhận được về mặt đạo đức hay sai trái về mặt đạo đức. năm 2001 có 53% người dân mỹ coi quan hệ đồng tính là sai về mặt đạo đức, chỉ 40% số họ coi là có thể chấp nhận được về mặt đạo đức. đến năm 2011 những con số thống kê đã thay đổi. 56% người ta cho rằng là quan hệ đồng tính có thể chấp nhận được về mặt đạo đức 39% số họ cho rằng sai đạo đức.
Người của hai bên đều cảm thấy rất kiên quyết. Michele Bachmann một nữ nghị sĩ đảng cộng hòa đến từ Minnesota từng đàm phán với cử tọa bảo thủ rằng. nếu như bạn tham gia vào lối sống đồng tính nam và đồng tính nữ lối sống đó là sự ràng buộc. là sự ràng buộc cá nhân, nỗi tuyệt vọng cá nhân và nô lệ cá nhân. Bachmann và chồng cô đề nghị những người đồng tính gặp khó khăn cách để họ thoát khỏi xiềng xích bị cáo buộc này là thoát khỏi nó đến với một trung tâm tư vấn cơ đốc ở Minnesota nơi cung cấp cho khách hàng liệu pháp chữa lành đền bù như một phương thuốc cho người đồng tính. Ms. Bachmann là một tín đồ tin lành. Quan điểm của công giáo có nhiều sắc thái hơn, nhưng họ đồng ý là quan hệ đồng tính là sai. Theo giáo lý của giáo hội công giáo, người đồng tính không chọn tình trạng đồng tính của họ nhưng phải được chấp nhận với sự tôn trọng, lòng trắc ẩn và sự nhạy cảm. Cần tránh mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công với họ. tuy nhiên các hành vi đồng tính về bản chất là rối loạn, và không có trường hợp ngoại lệ nào được chấp nhận, do đó nếu những người đồng tính muốn có đạo đức thì họ phải chống lại ham muốn của mình.
Chúng ta nên có thái độ nào/ chúng ta có thể nói rằng đồng tính là vô đạo đức, hoặc có thể nói rằng đồng tính là đúng, nhưng có sự thay thế khác chúng ta có thể nói. Mọi ý kiến khác nhau liên quan đến đạo đức thì không có sự thật, không có ai đúng mọi người chỉ cần thấy sự khác nhau chỉ đơn giản là vậy.
Đây là tư tưởng cơ bản đằng sau chủ nghĩa duy thể đạo đức, chủ nghĩa duy thể đạo đức là ý tưởng cho rằng ý kiến đạo đức của chúng ta dựa trên cảm xúc của chúng ta và không có gì hơn thế. Trên quan điểm này không có cái gọi là khách quan hay đúng sai, chỉ có một thực tế là một số người đồng tính và một số người di tính, nhưng không phải sự thật rằng người này tốt, người kia xấu, vì vậy khi ai đó như Bachmann nói rằng đồng tính là sai cô ấy không nêu lên sự thật về đồng tính thay vào đó chỉ đơn thuần là cái gì đó về cảm xúc của cô ấy.
Dĩ nhiên chủ nghĩa duy thể đạo đức không chỉ đơn thuần là một ý tưởng đánh giá về người quan hệ đồng giới, nó áp dụng cho tất cả các vấn đề đạo đức. ví dụ khác, Quốc Xã Đức đã tiêu diệt hàng triệu người vô tội, nhưng theo chủ nghĩa duy thể đạo đức, sự thật không phải những gì họ làm là xấu, khi ta cho là họ hành động xấu xa, đó chỉ là cảm xúc tiêu cực của chúng ta với họ, điều tương tự có thể áp dụng cho bất kỳ phán xét đạo đức.
3.2 Ý tưởng cơ bản của chủ nghĩa chủ quan.
Một lý thuyết triết học trải qua nhiều giai đoạn, lúc đầu đưa ra những thuật ngữ đơn giản, khiến nhiều người thấy hấp dẫn. tuy nhiêm công thức đơn giản đã được kiểm tra và thấy có khuyết điểm, một số người ấn tượng với phản đối đến mức rằng họ từ bỏ lý thuyết tuy nhiên những người khác giữ vững niềm tin vào ý tưởng cơ bản vì vậy họ cải tiến. Có vẻ họ có thể giải cứu lý thuyết, nhưng luận ngữ gây nghi ngờ lối giải thích mới, những phản đối mới đó giống như cái cũ khiến một số người từ bỏ ý tưởng, trong khi những người khác giữ niềm tin và đề xuất cách cải tiến khác, toàn bộ quá trình sửa đổi và phê bình sau đó bắt đầu lại.
Lý thuyết của chủ nghĩa duy thể đạo đức đã phát triển như một ý tưởng đơn giản, theo Hume đạo đức là vấn đề của tình cảm hơn là vấn đề thực tế, tuy nhiên những phản đối chống lại lý thuyết và những người bảo vệ nó đã cố gắng trả lời chúng, lý thuyết trở nên phức tạp hơn.
3.3 Giai đoạn đầu tiên chủ nghĩa duy thể đơn giản
Phiên bản đơn giản nhất của lý thuyết này là khi một người nói một cái gì đó là tốt hay xấu về mặt đạo đức, điều này có nghĩa họ chấp nhận hoặc không chấp nhận nó, và không có gì khác.
Nói cách khác: X chấp nhận được về mặt đạo đức
X là đúng, X tốt, X nên được thực hiện, điều đó có nghĩa là: tôi tán thành X
Và tương tự: X không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, X là sai, X là xấu, X không nên làm điều đó, điều đó không có nghĩa.
Chúng ta có thể gọi phiên bản lý thuyết này là chủ nghĩa duy thể đơn giản, nó thể hiện ý tưởn cơ bản của chủ nghĩa duy thể đạo đức cách đơn giản, hình thức đơn giản và nhiều người thấy hấp dẫn tuy nhiên nó tạo ra một số phản đối nghiêm trọng.
Chủ nghĩa duy thể đơn giản không có giá trị cho sự bất đồng
Những người đồng tính đồng ý với Matt Foreman không tin rằng quan hệ đồng tính là vô đạo đức. nữ nghị sĩ Michele Bachmannn dù thế nào vẫn tin vào nó. Vì vậy Foreman và Bachmann tỏ ra không đồng ý, nhưng xem ra chủ nghĩa duy thể đơn giản ám chỉ điều gì về vấn đề này.
Theo chủ nghĩa duy thể đạo đức, khi Foreman (quản đốc) nói quan hệ đồng tính không trái đạo đức, anh ta chỉ đang tuyên bố về thái độ của mình. Đồng thời Bachmann nói rằng quan hệ đồng tính là trái trái đạo đức.
Theo chủ nghĩa duy thể không có sự bất đồng trong chuyện này nhưng mỗi người nên thừa nhận sự thật của những gì người kia đang nói. Tuy nhiên chắc chắn điều này là không chính xác vì Bachmann và Foreman không đồng ý về quan hệ đồng tính.
Có sự thất vọng với hàm ý bởi chủ nghĩa duy thể đơn giản: Bachmann và Foreman phản đối nhau mạnh mẽ, họ thậm chí không thể nói quan điểm của mình theo hướng vấn đề. Foreman có thể cố gắng phủ nhận những gì Bachmann nói, nhưng theo chủ nghĩa duy thể đơn giản anh ta chỉ đúng khi nói về mình. Lập luận có thể được tóm tắt như sau: một người nói X chấp nhận được về mặt đạo đức, người khác nói X không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, họ không đồng ý. Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa duy thể đơn giản đúng, không thể có bất đồng, do đó chủ nghĩa duy thể đơn giản không đúng.
Chủ nghĩa duy thể đơn giản ngụ ý rằng nó luôn đúng
Đôi khi chúng ta sai trong việc đánh giá đạo đức, nhưng nếu đơn giản chủ nghĩa duy thể đã đúng, không thể xẩy ra. Một lần nữa, xem xét Bachmann người nói rằng quan hệ đồng tính như bị bắt làm nô lệ, khi nói vậy cô ấy muốn nói những người quan hệ đồng tính là nô lệ, đó chỉ đơn thuần là quan điểm của cô ấy, Bacmann không chấp nhận quan hệ đồng tính. Tất nhiên cô áy có thể nói dối, có thể cô ấy không bận tâm về quan hệ đồng tính chỉ đơn giản là playing to her conservative audience tuy nhiên nếu Bachmann nói theo kiểu cá nhân chân thành thì những gì cô nói là đúng, miễn a đó đang biết cảm xúc và đạo đức của cô ấy nó sẽ phán đoán đúng. Nhưng cũng có sai lầm là đôi khi chúng ta phạm sai lầm về đạo đức, vì thế chủ nghĩa duy thể đơn giản không thể đúng những lập luận thì gợi ý chủ nghĩa duy thể là một lý thuyết thiếu xót, trước những lập luận như thế thì một số triết gia chọn cách bác bỏ toàn bộ tư tưởng của chủ nghĩa đơn giản đạo đức, tuy nhiên những người khác lại cố gắng để cải thiện lý thuyết này.
3.4. Giai đoạn thứ hai: Thuyết duy cảm (Emotivism)
Phiên bản cải tiến được biết đến như là thuyết Duy cảm. Thuyết này phổ biến vào giữa thế kỷ 20, phần lớn là nhờ sự cống hiến của nhà triết học người Mỹ Charles L. Stevenson (1908–1979). Stevenson nói, ngôn ngữ được sử dụng theo nhiều cách. Một trong số đó là đưa ra các tuyên bố - tức là nêu các dữ kiện (facts). Do đó, chúng ta có thể nói:
“Giá xăng đang tăng.”
“Lance Armstrong đã đánh bại căn bệnh ung thư và sau đó bảy lần giành chiến thắng trong cuộc đua xe đạp Tour de France.”
“Shakespeare đã viết Hamlet.”
Trong mỗi trường hợp, chúng ta đang nói điều gì đó hoặc đúng hoặc sai, thông thường, mục đích phát biểu của chúng ta là truyền tải thông tin đến người nghe.
Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng được sử dụng cho các mục đích khác. Giả sử tôi nói, "Đóng cửa lại!" Phát biểu này không đúng cũng không sai. Nó không phải là một tuyên bố, nhằm truyền đạt thông tin; nó là một mệnh lệnh. Mục đích của nó là khiến người nghe phải làm gì đó,
Hoặc xem xét những cách nói như thế này, không phải là những tuyên bố hay như những mệnh lệnh:
"Á (Aaargh!)"
“Tốt lắm, Lance!”
“Chết tiệt Hamlet!”
Chúng ta hiểu những câu này đủ dễ dàng. Nhưng trong số chúng không thể đúng hoặc sai. (Thật vô nghĩa khi nói, “Đúng là 'tốt lắm, Lance'” hoặc “Thật sai khi nói 'á'”) Những câu này không được sử dụng để nêu các dữ kiện (facts) hoặc để tác động đến hành vi. Mục đích của chúng là bày tỏ những thái độ của người nói - về giá xăng, về Lance Armstrong, hoặc về Hamlet.
Bây giờ hãy nghĩ về ngôn ngữ luân lý (moral language). Theo lý thuyết thứ nhất – Thuyết duy Chủ thể Đơn giản, ngôn ngữ luân lý nói về việc nêu rõ các sự thật - các tuyên bố đạo đức báo cáo các thái độ của người nói. Khi Bachmann nói, theo thuyết duy Chủ thể Đơn giản, “Đồng tính luyến ái là vô luân lý,” thì lời nói của cô ấy có nghĩa là “Tôi (Bachmann) không chấp nhận đồng tính luyến ái” - một tuyên bố sự thật về thái độ của Bachmann.
Tuy nhiên, theo thuyết Duy cảm, ngôn ngữ luân lý không phải là ngôn ngữ trình bày dữ kiện; nó không được sử dụng để truyền đạt thông tin hoặc để làm các báo cáo. Đầu tiên, nó được sử dụng như “một phương tiện để tác động đến hành vi của mọi người. Nếu ai đó nói, “Bạn không nên làm điều đó,” anh ta đang cố gắng thuyết phục bạn không làm điều đó.Vì vậy, lời nói của anh ta giống như một mệnh lệnh hơn “ là một tuyên bố của dữ kiện; “Bạn không nên làm điều đó” cũng giống như nói “Đừng làm điều đó!” Tương tự, ngôn ngữ luân lý được dùng để bày tỏ thái độ của một người nào đó. Do đó, gọi Lance Armstrong là “một người đàn ông tốt” cũng giống như nói “Tốt lắm, Lance!” Và vì vậy, khi Bachmann nói, “Đồng tính luyến ái là vô luân lý,” những người theo thuyết Duy cảm giải thích lời nói của cô ấy tương đương với điều gì đó đại loại như “Đồng tính luyến ái - thô thiển!” hoặc "Đừng là người đồng tính!"
Sự khác biệt này giữa thuyết duy Chủ quan Đơn giản và thuyết Duy cảm có vẻ không đáng kể. Nhưng nó rất quan trọng. Để biết lý do tại sao, hãy xem xét lại các lập luận chống lại thuyết duy Chủ quan Đơn giản. Trong khi những lập luận đó gây bối rối nghiêm trọng đối với thuyết duy Chủ quan Đơn giản, thì chúng lại kém hiệu quả hơn đối với thuyết Duy cảm.
1. Lập luận đầu tiên liên quan đến sự bất đồng về mặt luân lý. Nếu thuyết duy Chủ quan Đơn giản là đúng, thì khi một người nói, “X là chấp nhận được về mặt luân lý,” và người khác nói, “X là không thể chấp nhận được về mặt luân lý,” họ không thực sự bất đồng. Thay vào đó, họ đang nói về những điều khác nhau: mỗi người đang đưa ra lời khẳng định về thái độ của chính mình – một lời khẳng định mà người kia không tranh cãi. Nhưng, lập luận đi, những người như vậy thực sự không đồng ý. Do đó, thuyết duy Chủ quan Đơn giản không thể đúng.
Đáp lại, thuyết Duy cảm nhấn mạnh rằng sự bất đồng xảy ra dưới các hình thức khác nhau. So sánh hai loại bất đồng này:
• Tôi tin rằng Lee Harvey Oswald đã hành động một mình trong vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy, và bạn tin rằng có một âm mưu. Đây là sự bất đồng về những dự kiện - tôi tin điều gì đó là đúng mà bạn tin là sai.
• Tôi ủng hộ Atlanta Braves giành chiến thắng, còn bạn lại muốn họ thua. Niềm tin của chúng tôi không xung đột, nhưng mong muốn của chúng tôi là - tôi muốn điều gì đó xảy ra mà bạn không muốn xảy ra.
Trong trường hợp đầu tiên, chúng tôi tin những điều khác nhau, cả hai đều không thể đúng. Stevenson gọi sự bất đồng này trong niềm tin. Trong trường hợp thứ hai, chúng tôi muốn kết quả khác nhau, cả hai đều không thể xảy ra. Stevenson gọi đây là sự bất đồng về thái độ. Như Stevenson quan sát, chúng ta có thể không đồng ý về thái độ ngay cả khi chúng ta không đồng ý về niềm tin. Ví dụ, bạn và tôi có thể có tất cả niềm tin giống nhau về đội bóng chày Atlanta Braves: cả hai chúng tôi đều tin rằng các cầu thủ của Braves được trả lương cao; cả hai chúng tôi đều tin rằng tôi ủng hộ Braves chỉ vì tôi đến từ miền Nam; và cả hai chúng tôi đều tin rằng Atlanta không phải là một thị trấn bóng chày tuyệt vời. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điểm chung (common ground) này - bất chấp sự đồng thuận về niềm tin của chúng ta - chúng ta vẫn có thể khác nhau về thái độ: Tôi có thể vẫn muốn Braves thắng, và bạn có thể vẫn muốn họ thua.
Theo Stevenson, bất đồng luân lý (moral disagreement) chỉ là bất đồng về thái độ. Quan điểm của Matt Foreman về đồng tính rất khác với quan điểm của Michele Bachmann, ngay cả khi Foreman và Bachmann đồng ý về mọi sự thật. Vì vậy, đối với thuyết Duy cảm, xung đột luân lý là có thật. Ngược lại, thuyết duy Chủ quan Đơn giản giải thích sự bất đồng về luân lý là sự bất đồng về niềm tin - các phán đoán đạo đức thể hiện niềm tin về thái độ của người nói - vì vậy, khi mọi người không đồng ý, họ phải không đồng ý về thái độ của người nói. Tuy nhiên, điều này có được những điều sai lầm. Foreman và Bachmann không đồng ý về đồng tính luyến ái, nhưng họ không đồng ý về thái độ của chính họ.
2. Lập luận thứ hai là nếu thuyết duy Chủ thể Đơn giản đúng, thì chúng ta luôn đúng trong các phán đoán luân lý (moral judgments) của mình. Nhưng, tất nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng đúng. Do đó, thuyết duy Chủ thể Đơn giản không thể đúng.
Lập luận này chỉ có hiệu quả vì thuyết duy Chủ thể Đơn giản diễn giải các phán đoán luân lý như những phát biểu có thể đúng hoặc sai. “Luôn luôn đúng” có nghĩa là phán đoán của một người luôn đúng; và thuyết duy Chủ thể Đơn giản gán cho các phán đoán luân lý một ý nghĩa sẽ luôn đúng, miễn là người nói chân thành. Đó là lý do tại sao, theo lý thuyết đó, mọi người hóa ra luôn luôn đúng. Mặt khác, thuyết Duy cảm không giải thích các phán đoán luân lý là những tuyên bố đúng hay sai. Vì các mệnh lệnh và các thể hiện thái độ không thể đúng hay sai, mọi người không thể “đúng” đối với chúng, càng không thể “luôn đúng”.
Do đó, thuyết Duy cảm cũng tránh sự phản đối này đối với thuyết Duy Chủ thể Đơn giản. Tuy nhiên, nó dễ bị khiếu nại liên quan. Mặc dù không phải lúc nào chúng tôi cũng đúng trong các đánh giá của mình, nhưng đôi khi chúng tôi đúng. Đôi khi những đánh giá luân lý của chúng ta là đúng và đôi khi chúng là sai. Tuy nhiên, những người theo thuyết Duy cảm không thể nói điều này, bởi vì họ phủ nhận rằng diễn ngôn luân lý là nói về sự thật.
Hãy xem xét ví dụ này. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2004, một bé gái 8 tuổi tên là Katie Shelton đang đi bộ trên một con phố ở Seymour, Indiana. Đột nhiên, cô phải đối mặt với hai con chó săn, mỗi con nặng hơn 80 pound. Những con chó quật ngã Katie và cắn cô liên tục. Tuy nhiên, cuộc sống của cô bé đã được cứu bởi hành động anh hùng của Mark Friedrich, 14 tuổi, sống gần đó. Khi Mark nhìn thấy những gì đang xảy ra, anh ta lao ra khỏi nhà với hai cây gậy và tấn công những con chó. Có thể đoán trước rằng Mark đã bị cắn, nhưng anh ấy đã có thể giữ những con chó tránh xa Katie cho đến khi một cảnh sát đến với một khẩu súng. Cả hai đứa trẻ đều bình phục vết thương (những con chó thật không may mắn).
Bây giờ, giả sử rằng khi nghe câu chuyện này, ai đó đã nói rằng Mark Friedrich đã hành động tồi tệ: “Nếu anh ta là một đứa trẻ tốt, anh ta sẽ lo việc riêng của mình và ở trong nhà của anh ta.” Miễn là người lạ mặt này nói một cách chân thành, Người theo thuyết duy chủ quan đơn giản sẽ phải nói rằng phán đoán đạo đức của anh ta là đúng. Vị thế của người theo thuyết Duy cảm thì khác, nhưng giống như Người theo thuyết Duy Chủ thể Đơn giản, cô ấy bị cấm nói rằng phán đoán của người này là sai. Cô ấy phải nói rằng anh ấy chỉ đang bày tỏ cảm xúc của mình.
Mặc dù thuyết duy cảm là một cải tiến của thuyết duy Chủ thể Đơn giản, nhưng cả hai lý thuyết đều ngụ ý rằng các phán đoán lân lý của chúng ta, theo một nghĩa nào đó, không thể chê trách được. Đối với thuyết Chủ thể Đơn giản, các phán đoán của chúng ta không thể bị phê bình vì chúng sẽ luôn đúng. Đối với thuyết duy cảm, những đánh giá luân lý của chúng ta không thể bị chỉ trích bởi vì chúng không phải là những đánh giá nào cả; chúng chỉ là những biểu hiện đơn thuần của thái độ, điều mà không thể sai được. Đó là một vấn đề đối với thuyết duy cảm. Một vấn đề khác là thuyết duy cảm không thể giải thích vai trò của lý trí trong đạo đức.
3.5. Vai trò của lý trí trong đạo đức
Nếu ai đó nói, “Tôi thích những quả đào,” cô ấy không cần phải có lý do; cô ấy có thể đang đưa ra tuyên bố về sở thích cá nhân của mình và không có gì hơn thế. Nhưng những đánh giá về luân lý thì khác. Nếu như ai đó nói với bạn rằng một hành động cụ thể sẽ là sai, bạn có thể hỏi tại sao và nếu không có câu trả lời thỏa đáng, thì bạn có thể bác bỏ lời khuyên đó vì cho rằng không có cơ sở. Một đánh giá về luân lý - hay bất kỳ loại đánh giá nào về giá trị - phải được hỗ trợ bởi những lý do chính đáng. Bất kỳ lý thuyết đầy đủ nào về đạo đức đều có thể giải thích lý do có thể hỗ trợ cho các phán đoán luân lý như thế nào.
Những người theo thuyết Duy cảm nói gì về lý trí (reasons)? Hãy nhớ rằng đối với người theo thuyết Duy cảm, những đánh giá luân lý có hai chức năng: thể hiện thái độ của một người và cố gắng tác động đến thái độ và hành vi của người khác. Chức năng biểu đạt của ngôn ngữ luân lý có thể tìm thấy một nơi cho lý trí? Trong chừng mực những phán đoán luân lý chỉ là những biểu hiện của thái độ, chúng giống như sở thích cá nhân. Khi tôi nói, “Để mọi người được tự do về mặt luân lý tốt hơn là bắt họ làm nô lệ,” người theo thuyết Duy cảm sẽ nghe điều này tương tự như “Quả đào tốt hơn táo”. Người theo thuyết Duy cảm có thể nhận ra một số khác biệt giữa hai cách nói đó. Tuy nhiên, về cơ bản chúng giống nhau. Lý trí không thể đóng vai trò quan trọng nào ở đây.
Do đó, những người theo thuyết Duy cảm thường nhìn vào chức năng mệnh lệnh của ngôn ngữ luân lý để tìm ra vai trò của các lý trí. Giả sử tôi đã nói với bạn vào năm 2008, “Bạn không nên bỏ phiếu cho Barack Obama.” Nếu câu nói này giống như một mệnh lệnh - nếu nó giống như nói, "Đừng bỏ phiếu cho Obama" - thì lý do có thể đóng vai trò gì trong một phán đoán như vậy? Nếu tôi đang cố gắng tác động đến hành vi của bạn, thì có lẽ người theo thuyết Duy cảm nên nói rằng lý do là bất kỳ sự cân nhắc nào sẽ ảnh hưởng đến hành vi của bạn. Nhưng hãy xem xét điều này có nghĩa là gì. Giả sử tôi biết rằng bạn có thành kiến với người Hồi giáo. Và tôi nói, "Obama, bạn biết đấy, là một người Hồi giáo."Đó là mẹo; bây giờ bạn quyết định không bỏ phiếu cho Obama. Đối với những người theo thuyết Duy cảm , tuyên bố rằng Obama là một người Hồi giáo sẽ là một lý do luân lý để không bỏ phiếu cho ông, nếu được đưa ra đúng đối tượng. Trên thực tế, Stevenson có chính xác quan điểm này. Trong tác phẩm kinh điển Đạo đức và ngôn ngữ (Ethics and Language (1944)), ông nói, “Bất kỳ phát biểu nào về bất kỳ vấn đề thực tế nào mà bất kỳ diễn giả nào cho là có khả năng thay đổi thái độ đều có thể được viện dẫn như một lý do ủng hộ hoặc chống lại một phán xét luân lý.”
Rõ ràng, một cái gì đó đã đi sai. Không phải bất kỳ khiếu nại nào cũng có thể được coi là lý trí hỗ trợ cho bất kỳ phán quyết nào. Đối với một điều, nó phải phù hợp với phán đoán và ảnh hưởng tâm lý không phải lúc nào cũng mang lại sự phù hợp với nó. Là người Hồi giáo không liên quan đến khả năng trở thành một tổng thống tốt của một người, bất kể mối liên hệ tâm lý trong tâm trí của bất kỳ ai. Ngoài ra, để được một lý trí chính đáng, một tuyên bố phải đúng, và những tuyên bố sai có thể thuyết phục. Tổng thống Obama trên thực tế không phải là một người Hồi giáo.
Có hai bài học được rút ra từ điều này. Theo thuyết Duy cảm, bài học nhỏ là một lý thuyết luân lý cụ thể, là thiếu sót, điều này gây nghi ngờ cho toàn bộ ý tưởng của thuyết Duy Chủ thể Đạo đức. Bài học lớn hơn liên quan đến tầm quan trọng của lý trí trong đạo đức.
Hume nói rằng nếu chúng ta xem xét những hành động xấu xa - “chẳng hạn như cố ý giết người” - chúng ta sẽ không tìm thấy “vấn đề của dữ kiện” hay phản ứng nào đối với sự xấu xa đó. Vũ trụ, ngoài thái độ của chúng ta, không chứa những dữ kiện như vậy. Chúng ta có thể kết luận gì từ điều này? Phải thừa nhận rằng giá trị không phải là thứ hữu hình như một hành tinh hay một cái thìa. Nhưng điều này không có nghĩa là đạo đức không có cơ sở khách quan. Một sai lầm cơ bản mà nhiều người mắc phải là chỉ giả định hai khả năng:
1. Có những sự thật luân lý, giống như có những hành tinh và những chiếc thìa.
2. Giá trị của chúng ta không gì khác hơn là sự thể hiện cảm xúc chủ quan của chúng ta.
Đây là một sai lầm vì nó bỏ qua khả năng thứ ba. Mọi người không chỉ có cảm xúc mà còn có lý trí, và điều đó tạo nên sự khác biệt lớn. Có thể là
3. Chân lý luân lý là chân lý của lý trí; nghĩa là, một phán đoán luân lý là đúng nếu nó được hỗ trợ bởi những lý trí tốt hơn so với những lựa chọn thay thế.
Theo quan điểm này, các sự thật luân lý là khách quan theo nghĩa là chúng đúng độc lập với những gì chúng ta có thể muốn hoặc nghĩ. Chúng ta không thể làm điều gì đó tốt hay xấu chỉ bằng cách mong muốn nó như vậy, bởi vì ý chí của chúng ta không thể xác định được những lý trí là gì. Và điều này cũng giải thích khả năng sai lầm của chúng ta: Chúng ta có thể sai về điều gì là tốt hay xấu bởi vì chúng ta có thể sai về điều mà lý trí khuyến nghị. Lý trí nói những gì nó nói, bất kể ý kiến hay mong muốn của chúng ta là gì.
3.6. Trong Đạo đức học có bằng chứng không?
Nếu trong Đạo đức học, Chủ nghĩa duy Chủ thể không đúng, thì tại sao lại có nhiều người bị nó thu hút? Có lý do cho là khoa học cung cấp hệ hình về tính khách quan, nhưng đạo đức học dường như thiếu điều đó, khi chúng ta so sánh đạo đức học với khoa học. Ví dụ, có bằng chứng trong khoa học, nhưng trong đạo đức học thì không. Chúng ta có thể chứng minh trái đất này tròn, khủng long xuất hiện trước con người, và không có số nguyên tố lớn nhất. Nhưng chúng ta không thể chứng minh việc phá thai là chấp nhận được hay không.
Có ý kiến chung cho rằng, không thể chứng minh được các phán đoán đạo đức có vẻ hấp dẫn. Bất cứ ai đã từng tranh luận về một vấn đề nào đó như phá thai thì đều biết rằng, việc cố gắng “chứng minh” ý kiến của mình có thể gây khó chịu như thế nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét ý tưởng này kỹ hơn, thì hóa ra nó là một sai lầm.
Chúng ta thử xem xét điều gì đó đơn giản hơn nhiều so với phá thai. Một sinh viên nói rằng bài kiểm tra là không công bằng. Đây rõ ràng là một phán đoán đạo đức - sự công bằng là một giá trị đạo đức cơ bản. Phán đoán này có thể chứng minh được không? Sinh viên có thể chỉ ra rằng, bài kiểm tra bao gồm rất nhiều nội dung không quan trọng, trong khi bỏ qua nội dung mà giáo viên đã nhấn mạnh là quan trọng. Bài kiểm tra cũng bao gồm các câu hỏi không được đề cập trong các bài đọc hoặc các cuộc thảo luận trên lớp. Hơn nữa, bài kiểm tra thì quá dài nên không ai có thể hoàn thành nó đúng giờ.
Giả sử tất cả điều này đúng. Hơn nữa, khi được yêu cầu giải thích, giáo viên đã không thể đưa ra lời bào chữa nào cả. Trên thực tế, là người khá thiếu kinh nghiệm nên giáo viên có vẻ bối rối về toàn bộ sự việc này. Bấy giờ, không phải học sinh đã chứng minh rằng bài kiểm tra là không công bằng sao? Chúng ta còn muốn gì hơn nữa trong việc chứng minh? Sẽ dễ dàng hơn khi suy nghĩ những ví dụ khác tương tự thế:
• Jones là một người nam giới xấu: Jones là một kẻ chuyên nói dối; hay đùa giỡn với mọi người; gian lận khi chơi bài; và đã từng giết người trong một cuộc tranh chấp 27 xu.
• Tiến sĩ Smith là người vô trách nhiệm: Ông ta chẩn đoán dựa trên những cân nhắc hời hợt; từ chối nghe lời khuyên của các đồng nghiệp; và còn uống bia trước khi thực hiện ca phẫu thuật tinh vi nữa.
• Một đại lý xe cũ nào đó là phi đạo đức: Anh ta che giấu những khiếm khuyết của các xe đi; cố gắng gây áp lực để buộc mọi người phải trả giá cao hơn; chạy các quảng cáo gây hiểu lầm trên Web.
Tiến trình đưa ra lý do có thể phải đi thêm một bước nữa. Nếu chúng ta chỉ trích Jones là một kẻ chuyên nói dối, chúng ta có thể tiếp tục giải thích tại sao nói dối là xấu. Thứ nhất, vì nó làm hại người khác. Nếu tôi cung cấp cho bạn thông tin giả và bạn tin nó, mọi thứ có thể trở nên tồi tệ với bạn theo mọi cách. Thứ hai, vì nó vi phạm lòng tin. Tin tưởng ai đó có nghĩa là khiến bản thân dễ bị tổn thương và không được bảo vệ. Khi tôi tin tưởng bạn, tôi chỉ tin những gì bạn nói, mà không cần đề phòng; và khi bạn nói dối là bạn đang lợi dụng lòng tin của tôi. Và cuối cùng, quy tắc đòi hỏi sự trung thực là cần thiết để xã hội tồn tại - nếu chúng ta không thể thừa nhận rằng người khác sẽ nói thật, thì không thể giao tiếp, và nếu thế thì xã hội sẽ tan rã.
Vì vậy, chúng ta có thể chứng minh các phán đoán của mình với những lý do chính đáng, và có thể giải thích được tại sao những lý do đó lại quan trọng. Nếu chúng ta có thể làm tất cả những điều này, vả lại thấy rằng, ở phía đối lập, không có trường hợp nào có thể so sánh được thực hiện, thì ai còn có thể muốn gì hơn nữa trong việc “chứng minh”? Trước tất cả những điều này, thật vô lý khi nói rằng, những phán đoán đạo đức không là gì khác ngoài “ý kiến”.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng những phán đoán đạo đức mà “không thể chứng minh được” vẫn tồn tại dai dẳng cách đáng kể. Tại sao mọi người tin điều này? Chúng ta có thể nêu ra ba điểm sau.
Thứ nhất, khi cần bằng chứng, người ta thường muốn có bằng chứng khoa học. Họ muốn điều gì đó giống như kiểm chứng bằng thực nghiệm. Vì những phán đoán về đạo đức không thể được kiểm tra bằng thực nghiệm, nên họ nói rằng không có bằng chứng. Nhưng trong đạo đức, tư duy hợp lý bao gồm việc đưa ra lý do, phân tích lập luận, thiết lập và biện minh cho các nguyên tắc, v.v. Thực tế là lý luận đạo đức khác với lý luận khoa học cũng không làm cho nó thiếu bằng chứng.
Thứ hai, khi chúng ta nghĩ đến việc chứng minh các quan điểm đạo đức của mình, chúng ta có xu hướng nghĩ đến những vấn đề khó khăn nhất. Ví dụ, vấn đề phá thai vô cùng phức tạp. Nếu chúng ta chỉ xem xét các vấn đề như phá thai, thì rất dễ tin rằng trong đạo đức học, không thể có “bằng chứng”. Đối với khoa học cũng tương tự thế. Có những vấn đề phức tạp mà các nhà vật lý không thể đồng thuận với nhau; và nếu chúng ta tập trung hoàn toàn vào chúng, chúng ta có thể kết luận rằng, trong vật lý học cũng không có bằng chứng nào. Nhưng, tất nhiên, có nhiều vấn đề đơn giản hơn mà tất cả các nhà vật lý đều đồng ý với nhau được. Trong đạo đức học cũng thế, có nhiều vấn đề đơn giản mà tất cả những người có lý trí đều đồng ý.
Cuối cùng, thật dễ dàng để kết hợp hai vấn đề thực sự rất khác nhau này:
1. Chứng minh một ý kiến là đúng.
2. Thuyết phục ai đó chấp nhận bằng chứng của bạn.
Khi lập luận của bạn không thuyết phục được khán giả, bạn sẽ có xu hướng nghĩ rằng, “ồ, mình đã thất bại”. Tuy nhiên, lập luận đó có thể đã thất bại chỉ vì khán giả của bạn bảo thù, hoặc thiên vị, hoặc không thực sự lắng nghe bạn. Lập luận của bạn có thể đã hoàn hảo, và như thế, nó sẽ là một bằng chứng.
3.7. Vấn đề đồng tính luyến ái
Hãy trở lại với cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái. Nếu chúng ta xem xét các lý do có liên quan, chúng ta thấy gì? Thực tế thích hợp nhất là những người đồng tính đang theo đuổi một kiểu sống duy nhất có thể khiến họ hạnh phúc. Xét cho cùng, tình dục là một sự thôi thúc đặc biệt mạnh mẽ, ít người có thể hạnh phúc mà không cần thỏa mãn nhu cầu tình dục.
Nhưng chúng ta không nên chỉ tập trung vào tình dục. Đồng tính luyến ái không đơn thuần là bạn quan hệ tình dục với ai; nhưng là về người mà bạn yêu. Người đồng tính cũng yêu như cách mà người dị tính yêu nhau. Và, giống như người dị tính, người đồng tính thường muốn ở bên, chung sống và xây dựng cuộc sống với người họ yêu. Do đó, nói rằng những người đồng tính luyến ái không nên hành động theo khao khát của họ là kết án họ với cuộc sống đầy thất vọng. Cũng cần nói thêm rằng những người đồng tính không tránh khỏi sự bức xúc khi chọn trở thành người dị tính. Cả người đồng tính và dị tính đều khám phá ra họ là ai, khi họ đến một độ tuổi nhất định nào đấy; không ai quyết định giới tính nào sẽ bị thu hút.
Tại sao nhiều người phản đối quyền của người đồng tính? Một số người cho rằng người đồng tính gây nguy hiểm cho người khác. Những người đồng tính nam có thể là những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em, thông thường họ bị buộc tội như vậy, cho dù là đã công bố hay chưa. Ví dụ, đã có một số chiến dịch ở Mỹ kêu gọi sa thải các giáo viên là người đồng tính khỏi các trường công, và nỗi sợ hãi về ấu dâm luôn nổi lên trong các cuộc thảo luận này. Nữ nghị sĩ Bachmann đã khai thác nỗi sợ hãi này khi nói về hôn nhân đồng tính, “Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, bởi vì chính con cái của chúng ta là điều ước vọng cho cộng đồng này—[cộng đồng người đồng tính] đang nhắm mục tiêu cụ thể vào con cái chúng ta.” Tuy nhiên, một nỗi sợ hãi như vậy chưa bao giờ có bất kỳ cơ sở nào trên thực tế. Đó chỉ là một khuôn mẫu, giống như ý kiến cho rằng người da đen lười biếng hoặc người Hồi giáo là những kẻ khủng bố.
Không có sự khác biệt nào giữa người đồng tính và dị tính về tư cách đạo đức hoặc đóng góp của họ cho xã hội.
Sự phản đối phổ biến nhất đối với đồng tính luyến ái có thể là nó “phi tự nhiên”. Chúng ta nên làm gì đây? Để đánh giá lập luận trên, chúng ta cần biết “phi tự nhiên” nghĩa là gì. Dường như có ba khả năng.
Đầu tiên, "phi tự nhiên" có thể được coi là một khái niệm thống kê. Theo nghĩa này, phẩm chất của con người là phi tự nhiên nếu hầu hết mọi người không có nó. Người đồng tính sẽ là phi tự nhiên theo nghĩa này, nhưng là người thuận tay trái, cao và thậm chí là vô cùng tốt bụng. Rõ ràng, đây không phải là lý do để chỉ trích đồng tính luyến ái. Những phẩm chất hiếm có thường tốt.
Thứ hai, ý nghĩa của “phi tự nhiên” có thể được kết nối với ý tưởng về mục đích của một sự vật. Các bộ phận của cơ thể chúng ta dường như phục vụ cho những mục đích riêng biệt. Mục đích của mắt là để nhìn, và mục đích của tim là bơm máu. Tương tự như vậy, mục đích của bộ phận sinh dục của chúng ta là để sinh sản: Tình dục là để sinh em bé. Do đó, có thể lập luận rằng quan hệ tình dục đồng tính là phi tự nhiên, bởi vì đó là hoạt động tình dục tách rời khỏi mục đích tự nhiên của nó.
Điều này dường như bày tỏ suy nghĩ của nhiều người khi họ phản đối đồng tính luyến ái là phi tự nhiên. Tuy nhiên, nếu quan hệ tình dục đồng tính bị lên án vì lý do này, thì một số tập tục khác, được chấp nhận rộng rãi cũng sẽ phải bị lên án: thủ dâm, quan hệ tình dục bằng miệng, quan hệ tình dục bằng bao cao su và thậm chí cả quan hệ tình dục của phụ nữ khi mang thai hoặc sau khi mãn kinh. Những thực hành này cũng là “phi tự nhiên” (và có lẽ là tệ hại) như quan hệ tình dục đồng tính. Nhưng không có lý do gì để chấp nhận những kết luận này, bởi vì toàn bộ lập luận này đều sai lầm. Nó dựa trên giả định rằng, việc sử dụng các bộ phận của cơ thể cho bất kỳ mục đích nào khác ngoài mục đích tự nhiên của chúng là sai. Tại sao chúng ta nên chấp nhận giả định đó? “Mục đích” của mắt là để nhìn; do đó, dùng mắt để tán tỉnh hay ra hiệu có phải là sai không? “Mục đích” của các ngón tay có thể là để nắm và chọc; vậy, búng ngón tay để thu hút sự chú ý của ai đó có sai không? Không thể duy trì ý tưởng rằng mọi thứ chỉ nên được sử dụng theo cách “tự nhiên”; và do đó, hình thức lập luận này không thành công.
Thứ ba, vì từ phi tự nhiên nghe có vẻ như một cái gì đó xấu xa, nó có thể được hiểu đơn giản là một thuật ngữ đánh giá. Có lẽ nó là cái gì đó giống như “trái ngược với những gì một người nên trở thành.” Nhưng nếu đó là ý nghĩa của “phi tự nhiên”, thì việc nói rằng đồng tính luyến ái là sai vì nó phi tự nhiên sẽ là sáo rỗng. Nó giống như nói rằng đồng tính luyến ái là sai vì nó sai. Loại nhận xét trống rỗng đó không cung cấp lý do để lên án bất cứ điều gì. Ý tưởng cho rằng đồng tính luyến ái là phi tự nhiên, và do đó nó phải là vô đạo đức, dường như đúng với nhiều người. Tuy nhiên, đó là một lập luận không có căn cứ. Nó thất bại trên mọi giải thích.
Nhưng còn lời khẳng định thường được đưa ra rằng đồng tính luyến ái là “trái với các giá trị gia đình” thì sao? James Dobson, người sáng lập nhóm Ki-tô hữu bảo thủ, Tập trung vào Gia đình, nói với những người theo ông: “Trong hơn 40 năm, phong trào đấu tranh cho người đồng tính luyến ái đã tìm cách thực hiện một kế hoạch tinh vi lấy trọng tâm là sự hủy diệt hoàn toàn gia đình”. Nhưng chính xác thì những người đồng tính luyến ái đang cố gắng phá hoại gia đình như thế nào? Các nhà hoạt động đồng tính đang thực sự cố gắng mở rộng gia đình. Họ không muốn lấy bất kỳ quyền nào từ các cặp vợ chồng khác giới. Thay vào đó, họ muốn tạo điều kiện dễ dàng hơn cho những người đồng tính lập gia đình—họ ủng hộ hôn nhân đồng giới, quyền lợi cho bạn đời sống chung, quyền nhận con nuôi của các cặp đồng tính, v.v. Những người đồng tính thấy thật mỉa mai khi những người ủng hộ “gia đình” muốn ngăn cản họ lập gia đình.
Có lẽ tất cả cuộc nói chuyện về “giá trị gia đình” này thực sự có nghĩa là: “Hãy đảm bảo rằng chúng ta không có những gia đình như thế.” Nhưng nếu vậy, thì câu hỏi đặt ra: Có gì sai với một gia đình mà con cái được nuôi dạy bởi hai người mẹ hoặc hai người cha? Tâm lý chung cho rằng hai cha mẹ tốt hơn một: nuôi dạy con cái là một nhiệm vụ to lớn và hai người có thể thực hiện những nhiệm vụ lớn dễ dàng hơn một người. Nhưng ngay cả khi số lượng cha mẹ trong một hộ gia đình là quan trọng, thì không rõ tại sao giới tính của họ lại như vậy.
Nghiên cứu lớn nhất về các gia đình đồng tính là Nghiên cứu Gia đình Đồng tính nữ theo chiều dọc Quốc gia Hoa Kỳ, đã theo dõi một nhóm các bà mẹ đồng tính từ những năm 1980. Dữ liệu của họ cho thấy rằng những đứa trẻ vị thành niên của những người đồng tính nữ thực sự làm tốt hơn những đứa trẻ từ những gia đình truyền thống. Đôi khi con cái của cha mẹ đồng tính bị chế giễu ở trường và điều này thật khó khăn đối với chúng. Tuy nhiên, nhìn chung, những đứa trẻ này có ít vấn đề về hành vi hơn và chúng làm tốt hơn cả về mặt xã hội và học tập so với các bạn cùng trang lứa. Không có lý do chính đáng để chống lại các gia đình đồng tính.
Trong khi đó, những người đồng tính luyến ái ở Mỹ tiếp tục bị thiệt thòi. Đôi khi bất lợi là một vấn đề của pháp luật. Về mặt pháp lý, những người dị tính có thể kết hôn ở bất kỳ bang nào, nhưng hôn nhân đồng tính chỉ tồn tại một phần hai của liên bang. Hơn nữa, chính phủ liên bang không công nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp, và vì vậy nó chỉ cung cấp lợi ích hôn nhân cho các cặp dị tính. Có hàng trăm lợi ích như vậy, bao gồm các lợi ích an sinh xã hội mà người phối ngẫu có thể nhận được sau cái chết của người phối ngẫu kia. Cuối cùng, ở Florida và Arkansas, những người đồng tính không thể nhận con nuôi một cách hợp pháp, mặc dù, tất nhiên, những người khác giới tính cũng có thể. Luật pháp ở Mỹ chắc chắn phân biệt đối xử với người đồng tính.
Tuy nhiên, ở nhiều nơi khác, luật thậm chí còn cực đoan hơn. Ở 76 quốc gia, quan hệ tình dục đồng giới là bất hợp pháp. Ở một số quốc gia, hình phạt là cái chết.
Ngoài luật pháp, có những hạn chế xã hội đối với người đồng tính ở Mỹ. Thật khó khăn khi lớn lên ở một nơi mà bốn phần mười hàng xóm của bạn tin rằng có điều gì đó không ổn với bạn. Tệ hơn nữa, bạn thấy rằng một số người hàng xóm của bạn thật đáng ghét—họ từ chối bạn và coi bạn ít là con người hơn. Đặc biệt đáng buồn khi một người trẻ được dạy là coi thường người đồng tính luyến ái bắt đầu nhận ra rằng mình là người đồng tính. Nhiều người đồng tính, dù vì sợ hãi hay xấu hổ, chọn cách sống khép kín. Nhưng về lâu dài, hầu như không thể che giấu giới tính của mình với bạn bè, thành viên gia đình và đồng nghiệp. Những người đồng tính ở Mỹ bị dẫn đến cuộc sống căng thẳng. Trong số các sinh viên đại học Mỹ, những người đồng tính có khả năng tự tử cao gấp đôi so với các bạn cùng lớp bình thường. Và những người đồng tính sống khép kín có khả năng thử nó cao gấp sáu lần.
Một lập luận nữa phải được thảo luận, đó là đồng tính luyến ái bị lên án trong Kinh thánh. Ví dụ, sách Lê-vi 18:22 nói: “Ngươi không được nằm với nam giới như nằm với đàn bà; đó là điều ghê tởm.” Một số nhà bình luận đã nói rằng, trái ngược với vẻ bề ngoài, Kinh thánh thực sự không quá khắc nghiệt đối với đồng tính luyến ái; và họ giải thích cách hiểu từng đoạn liên quan (dường như có chín đoạn). Nhưng giả sử chúng ta chấp nhận rằng Kinh thánh lên án đồng tính luyến ái, thì chúng ta có thể suy ra điều gì từ điều này? Chúng ta có nên tin những gì Kinh thánh nói chỉ vì nó nói như vậy không?
Câu hỏi này sẽ xúc phạm một số người. Họ tin rằng đặt câu hỏi về Kinh thánh là thách thức lời Chúa. Và họ cho rằng đây là một hành động kiêu ngạo đến từ những thụ tạo lẽ ra phải bày tỏ lòng biết ơn đối với Đấng Toàn năng. Việc đặt câu hỏi về Kinh Thánh cũng có thể khiến người ta cảm thấy không thoải mái, bởi vì nó dường như thách thức toàn bộ lối sống của họ. Tuy nhiên, những suy nghĩ như thế này không thể giữ chúng ta lại. Triết học là đặt câu hỏi về toàn bộ cách sống. Khi lập luận được đưa ra rằng đồng tính luyến ái hẳn là sai vì Kinh thánh nói như vậy, thì lập luận này phải được đánh giá theo cách riêng của nó.
Vấn đề với lập luận là, nếu chúng ta nhìn vào những điều khác mà Kinh thánh nói, nó dường như không phải là một hướng dẫn đạo đức đáng tin cậy. Sách Lê-vi lên án đồng tính luyến ái, nhưng nó cũng cấm ăn mỡ cừu (7:23), cho phép một phụ nữ vừa mới sinh con vào nơi tôn nghiêm của nhà thờ (12:2–5), và nhìn thấy chú của bạn khỏa thân. Cái sau, giống như đồng tính luyến ái, được coi là một sự ghê tởm (18:14, 26). Tệ hơn nữa, sách Lê-vi kết án tử hình những kẻ nguyền rủa cha mẹ mình (20:9) và những kẻ phạm tội ngoại tình (20:10). Nó nói rằng con gái của một thầy tế lễ sẽ bị thiêu sống, nếu cô ấy “đóng vai gái điếm,” (21:9), và nó nói rằng chúng ta có thể mua nô lệ từ các quốc gia lân cận (25:44). Trong sách Xuất hành, thậm chí còn nói rằng đánh đập nô lệ của bạn cũng được, miễn là bạn không giết họ (21:20–21).
Mục đích của tất cả những điều này không phải là chế giễu Kinh thánh; trên thực tế, Kinh thánh chứa đựng nhiều điều đúng đắn và khôn ngoan. Nhưng chúng ta có thể kết luận từ những ví dụ như thế này rằng Kinh Thánh không phải lúc nào cũng đúng. Và bởi vì không phải lúc nào cũng đúng, nên chúng ta không thể kết luận rằng đồng tính luyến ái là một điều ghê tởm chỉ vì nó nói như vậy trong sách Lêvi.
Dù sao đi nữa, không có gì có thể đúng hay sai về mặt đạo đức chỉ vì một người có thẩm quyền nói như vậy. Nếu các giới luật trong một văn bản thiêng liêng không phải là tùy tiện, thì phải có một số lý do cho chúng—chúng ta có thể hỏi tại sao Kinh thánh lên án đồng tính luyến ái và sau đó nhận được câu trả lời. Câu trả lời đó sau đó sẽ đưa ra lời giải thích thực sự về lý do tại sao điều đó là sai.
Nhưng điểm chính của chương này không phải là về đồng tính luyến ái. Điểm chính liên quan đến bản chất của tư duy đạo đức. Tư duy đạo đức và hành vi đạo đức là vấn đề cân nhắc các lý do và được hướng dẫn bởi chúng. Nhưng được hướng dẫn bởi lý trí rất khác với việc làm theo cảm xúc của một người. Khi có cảm xúc mạnh mẽ, chúng ta có thể bị cám dỗ bỏ qua lý trí và chiều theo cảm xúc. Nhưng khi làm như vậy, chúng ta sẽ hoàn toàn từ chối tư duy đạo đức. Đó là lý do tại sao, khi tập trung vào thái độ và cảm xúc, Chủ nghĩa Chủ quan Đạo đức dường như đang đi sai hướng.
0 Comments:
Không cho phép có nhận xét mới.