Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2023

Chủ Nghĩa Duy Thể Trong Đạo Đức

 Chủ Nghĩa Duy Thể Trong Đạo Đức

3.1 ý tưởng cơ bản của chủ nghĩa chủ quan.



Năm 2001 có một cuộc bầu cử thị trưởng ở New York, trong lúc diễn ra cuộc diễu hành sự kiện ngày tự hào đồng tính của thành phố, mọi ứng viên đảng dân chủ và đảng cộng hòa đều xuất hiện để diễu hành. Matt Foreman giám đốc của một tổ chức người đồng tính, đã mô tả các ứng cử viên tại cuộc diễu hành là, “tốt về mọi phương diện”. Anh ấy nói ở những khu vực khác của đất nước, các vị trí được đảm nhận ở đây sẽ không được ưa chuộng, nếu không phải cho là gây tai hại ở các cuộc thăm dò. Đảng cộng hòa quốc gia dường như đồng ý trong nhiều thập kỷ, nó đã phản đối phong trào quyền của người đồng tính.

  Mọi người trên khắp nước mỹ thực sự họ đã nghĩ gì? Từ năm 2001 Gallup Poll đã hỏi người dân mỹ xem cá nhân họ tin rằng quan hệ đồng tính là chấp nhận được về mặt đạo đức hay sai trái về mặt đạo đức. năm 2001 có 53% người dân mỹ coi quan hệ đồng tính là sai về mặt đạo đức, chỉ 40% số họ coi là có thể chấp nhận được về mặt đạo đức. đến năm 2011 những con số thống kê đã thay đổi. 56% người ta cho rằng là quan hệ đồng tính có thể chấp nhận được về mặt đạo đức 39% số họ cho rằng sai đạo đức.

  Người của hai bên đều cảm thấy rất kiên quyết. Michele Bachmann một nữ nghị sĩ đảng cộng hòa đến từ Minnesota từng đàm phán với cử tọa bảo thủ rằng. nếu như bạn tham gia vào lối sống đồng tính nam và đồng tính nữ lối sống đó là sự ràng buộc. là sự ràng buộc cá nhân, nỗi tuyệt vọng cá nhân và nô lệ cá nhân. Bachmann và chồng cô đề nghị những người đồng tính gặp khó khăn cách để họ thoát khỏi xiềng xích bị cáo buộc này là thoát khỏi nó đến với một trung tâm tư vấn cơ đốc ở Minnesota nơi cung cấp cho khách hàng liệu pháp chữa lành đền bù như một phương thuốc cho người đồng tính. Ms. Bachmann là một tín đồ tin lành. Quan điểm của công giáo có nhiều sắc thái hơn, nhưng họ đồng ý là quan hệ đồng tính là sai. Theo giáo lý của giáo hội công giáo, người đồng tính không chọn tình trạng đồng tính của họ nhưng phải được chấp nhận với sự tôn trọng, lòng trắc ẩn và sự nhạy cảm. Cần tránh mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công với họ. tuy nhiên các hành vi đồng tính về bản chất là rối loạn, và không có trường hợp ngoại lệ nào được chấp nhận, do đó nếu những người đồng tính muốn có đạo đức thì họ phải chống lại ham muốn của mình.

  Chúng ta nên có thái độ nào/ chúng ta có thể nói rằng đồng tính là vô đạo đức, hoặc có thể nói rằng đồng tính là đúng, nhưng có sự thay thế khác chúng ta có thể nói. Mọi ý kiến khác nhau liên quan đến đạo đức thì không có sự thật, không có ai đúng mọi người chỉ cần thấy sự khác nhau chỉ đơn giản là vậy.

   Đây là tư tưởng cơ bản đằng sau chủ nghĩa duy thể đạo đức, chủ nghĩa duy thể đạo đức là ý tưởng cho rằng ý kiến đạo đức của chúng ta dựa trên cảm xúc của chúng ta và không có gì hơn thế. Trên quan điểm này không có cái gọi là khách quan hay đúng sai, chỉ có một thực tế là một số người đồng tính và một số người di tính, nhưng không phải sự thật rằng người này tốt, người kia xấu, vì vậy khi ai đó như Bachmann nói rằng đồng tính là sai cô ấy không nêu lên sự thật về đồng tính thay vào đó chỉ đơn thuần là cái gì đó về cảm xúc của cô ấy. 

  Dĩ nhiên chủ nghĩa duy thể đạo đức không chỉ đơn thuần là một ý tưởng đánh giá về người quan hệ đồng giới, nó áp dụng cho tất cả các vấn đề đạo đức. ví dụ khác, Quốc Xã Đức đã tiêu diệt hàng triệu người vô tội, nhưng theo chủ nghĩa duy thể đạo đức, sự thật không phải những gì họ làm là xấu, khi ta cho là họ hành động xấu xa, đó chỉ là cảm xúc tiêu cực của chúng ta với họ, điều tương tự có thể áp dụng cho bất kỳ phán xét đạo đức.

3.2 Ý tưởng cơ bản của chủ nghĩa chủ quan.

   Một lý thuyết triết học trải qua nhiều giai đoạn, lúc đầu đưa ra những thuật ngữ đơn giản, khiến nhiều người thấy hấp dẫn. tuy nhiêm công thức đơn giản đã được kiểm tra và thấy có khuyết điểm, một số người ấn tượng với phản đối đến mức rằng họ từ bỏ lý thuyết tuy nhiên những người khác giữ vững niềm tin vào ý tưởng cơ bản vì vậy họ cải tiến. Có vẻ họ có thể giải cứu lý thuyết, nhưng luận ngữ gây nghi ngờ lối giải thích mới, những phản đối mới đó giống như cái cũ khiến một số người từ bỏ ý tưởng, trong khi những người khác giữ niềm tin và đề xuất cách cải tiến khác, toàn bộ quá trình sửa đổi và phê bình sau đó bắt đầu lại.

Lý thuyết của chủ nghĩa duy thể đạo đức đã phát triển như một ý tưởng đơn giản, theo Hume đạo đức là vấn đề của tình cảm hơn là vấn đề thực tế, tuy nhiên những phản đối chống lại lý thuyết và những người bảo vệ nó đã cố gắng trả lời chúng, lý thuyết trở nên phức tạp hơn.

3.3 Giai đoạn đầu tiên chủ nghĩa duy thể đơn giản

Phiên bản đơn giản nhất của lý thuyết này là khi một người nói một cái gì đó là tốt hay xấu về mặt đạo đức, điều này có nghĩa họ chấp nhận hoặc không chấp nhận nó, và không có gì khác.

Nói cách khác: X chấp nhận được về mặt đạo đức

X là đúng, X tốt, X nên được thực hiện, điều đó có nghĩa là: tôi tán thành X

Và tương tự: X không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, X là sai, X là xấu, X không nên làm điều đó, điều đó không có nghĩa.

Chúng ta có thể gọi phiên bản lý thuyết này là chủ nghĩa duy thể đơn giản, nó thể hiện ý tưởn cơ bản của chủ nghĩa duy thể đạo đức cách đơn giản, hình thức đơn giản và nhiều người thấy hấp dẫn tuy nhiên nó tạo ra một số phản đối nghiêm trọng.

Chủ nghĩa duy thể đơn giản không có giá trị cho sự bất đồng

Những người đồng tính đồng ý với Matt Foreman không tin rằng quan hệ đồng tính là vô đạo đức. nữ nghị sĩ Michele Bachmannn dù thế nào vẫn tin vào nó. Vì vậy Foreman và Bachmann tỏ ra không đồng ý, nhưng xem ra chủ nghĩa duy thể đơn giản ám chỉ điều gì về vấn đề này.

Theo chủ nghĩa duy thể đạo đức, khi Foreman (quản đốc) nói quan hệ đồng tính không trái đạo đức, anh ta chỉ đang tuyên bố về thái độ của mình. Đồng thời Bachmann nói rằng quan hệ đồng tính là trái trái đạo đức.

Theo chủ nghĩa duy thể không có sự bất đồng trong chuyện này nhưng mỗi người nên thừa nhận sự thật của những gì người kia đang nói. Tuy nhiên chắc chắn điều này là không chính xác vì Bachmann và Foreman không đồng ý về quan hệ đồng tính. 

Có sự thất vọng với hàm ý bởi chủ nghĩa duy thể đơn giản: Bachmann và Foreman phản đối nhau mạnh mẽ, họ thậm chí không thể nói quan điểm của mình theo hướng vấn đề. Foreman có thể cố gắng phủ nhận những gì Bachmann nói, nhưng theo chủ nghĩa duy thể đơn giản anh ta chỉ đúng khi nói về mình. Lập luận có thể được tóm tắt như sau: một người nói X chấp nhận được về mặt đạo đức, người khác nói X không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, họ không đồng ý. Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa duy thể đơn giản đúng, không thể có bất đồng, do đó chủ nghĩa duy thể đơn giản không đúng.

Chủ nghĩa duy thể đơn giản ngụ ý rằng nó luôn đúng

Đôi khi chúng ta sai trong việc đánh giá đạo đức, nhưng nếu đơn giản chủ nghĩa duy thể đã đúng, không thể xẩy ra. Một lần nữa, xem xét Bachmann người nói rằng quan hệ đồng tính như bị bắt làm nô lệ, khi nói vậy cô ấy muốn nói những người quan hệ đồng tính là nô lệ, đó chỉ đơn thuần là quan điểm của cô ấy, Bacmann không chấp nhận quan hệ đồng tính. Tất nhiên cô áy có thể nói dối, có thể cô ấy không bận tâm về quan hệ đồng tính chỉ đơn giản là playing to her conservative audience tuy nhiên nếu Bachmann nói theo kiểu cá nhân chân thành thì những gì cô nói là đúng, miễn a đó đang biết cảm xúc và đạo đức của cô ấy nó sẽ phán đoán đúng. Nhưng cũng có sai lầm là đôi khi chúng ta phạm sai lầm về đạo đức, vì thế chủ nghĩa duy thể đơn giản không thể đúng những lập luận thì gợi ý chủ nghĩa duy thể là một lý thuyết thiếu xót, trước những lập luận như thế thì một số triết gia chọn cách bác bỏ toàn bộ tư tưởng của chủ nghĩa đơn giản đạo đức, tuy nhiên những người khác lại cố gắng để cải thiện lý thuyết này.

3.4.  Giai  đoạn  thứ  hai:  Thuyết duy cảm (Emotivism)

Phiên bản cải tiến được  biết đến như là thuyết Duy cảm. Thuyết này  phổ  biến  vào  giữa  thế  kỷ  20,  phần  lớn  là  nhờ  sự cống hiến của nhà triết  học  người  Mỹ Charles  L. Stevenson  (1908–1979). Stevenson  nói,  ngôn  ngữ  được  sử  dụng  theo  nhiều  cách.  Một  trong số đó là  đưa  ra  các  tuyên  bố - tức là  nêu  các  dữ kiện (facts). Do đó,  chúng  ta  có  thể  nói:  

“Giá  xăng đang  tăng.”

“Lance  Armstrong  đã  đánh  bại  căn  bệnh  ung  thư  và  sau  đó  bảy lần giành  chiến  thắng  trong cuộc đua  xe  đạp  Tour  de  France.”

“Shakespeare  đã  viết  Hamlet.”

Trong  mỗi  trường  hợp, chúng  ta  đang  nói  điều  gì  đó  hoặc  đúng  hoặc  sai, thông  thường, mục  đích  phát  biểu  của  chúng  ta là  truyền tải thông  tin  đến  người  nghe.

Tuy  nhiên,  ngôn  ngữ  cũng  được  sử  dụng  cho  các  mục  đích  khác.  Giả sử tôi  nói,  "Đóng  cửa  lại!"  Phát biểu  này  không  đúng  cũng  không  sai.  Nó  không  phải  là  một  tuyên  bố,  nhằm  truyền  đạt  thông  tin;  nó  là  một  mệnh  lệnh.  Mục  đích  của  nó  là  khiến  người  nghe  phải  làm  gì  đó, 

Hoặc  xem  xét  những  cách  nói  như  thế  này,  không  phải  là những  tuyên bố hay như  những mệnh  lệnh:

"Á (Aaargh!)" 

“Tốt  lắm,  Lance!”

  “Chết  tiệt Hamlet!”

Chúng  ta hiểu  những  câu  này  đủ  dễ  dàng.  Nhưng trong  số chúng  không  thể  đúng  hoặc  sai.  (Thật  vô  nghĩa  khi  nói,  “Đúng  là  'tốt lắm, Lance'”  hoặc  “Thật  sai  khi  nói  'á'”)  Những  câu  này  không  được  sử  dụng  để  nêu  các dữ kiện (facts) hoặc  để  tác  động  đến  hành  vi. Mục  đích  của  chúng  là  bày  tỏ những thái  độ  của  người  nói - về  giá  xăng,  về  Lance  Armstrong,  hoặc  về  Hamlet.

Bây  giờ  hãy  nghĩ  về  ngôn  ngữ  luân lý (moral language).  Theo  lý  thuyết  thứ  nhất – Thuyết  duy  Chủ  thể   Đơn  giản,  ngôn  ngữ  luân lý  nói  về  việc  nêu  rõ  các sự thật - các tuyên  bố  đạo  đức  báo  cáo  các thái  độ  của  người  nói. Khi  Bachmann  nói,  theo  thuyết  duy  Chủ  thể   Đơn  giản,  “Đồng  tính  luyến  ái  là  vô  luân lý,”  thì  lời  nói  của  cô  ấy  có  nghĩa  là  “Tôi  (Bachmann)  không  chấp  nhận  đồng  tính  luyến  ái”  -  một  tuyên  bố  sự  thật  về  thái  độ  của  Bachmann.

Tuy  nhiên,  theo  thuyết Duy cảm,  ngôn  ngữ  luân lý  không  phải  là  ngôn  ngữ  trình  bày dữ kiện;  nó  không  được  sử  dụng  để  truyền  đạt  thông  tin  hoặc  để  làm các báo  cáo.  Đầu  tiên,  nó  được  sử  dụng  như  “một  phương  tiện  để  tác  động  đến  hành  vi  của  mọi  người.  Nếu  ai  đó  nói, “Bạn  không   nên  làm  điều đó,” anh ta đang cố gắng thuyết phục bạn không làm điều đó.Vì  vậy,  lời  nói  của  anh  ta  giống  như  một  mệnh  lệnh  hơn  “ là  một  tuyên  bố  của dữ kiện;  “Bạn  không  nên  làm  điều  đó”  cũng  giống  như  nói  “Đừng làm điều đó!” Tương tự, ngôn  ngữ  luân lý  được dùng để  bày  tỏ  thái  độ  của  một  người nào đó.  Do  đó,  gọi  Lance  Armstrong  là  “một  người  đàn  ông  tốt”  cũng  giống  như  nói  “Tốt  lắm,  Lance!”  Và  vì  vậy,  khi  Bachmann  nói,  “Đồng  tính  luyến  ái  là  vô  luân lý,”  những  người  theo thuyết Duy cảm giải  thích  lời  nói  của  cô  ấy  tương  đương  với  điều  gì  đó  đại  loại  như  “Đồng  tính  luyến  ái  -  thô  thiển!”  hoặc  "Đừng  là  người  đồng  tính!"

Sự  khác  biệt  này  giữa  thuyết duy Chủ  quan  Đơn  giản  và  thuyết Duy cảm  có  vẻ  không đáng kể.  Nhưng  nó  rất  quan  trọng.  Để  biết  lý  do  tại  sao,  hãy  xem  xét  lại  các  lập  luận  chống  lại  thuyết duy Chủ  quan  Đơn  giản.  Trong  khi  những  lập  luận  đó  gây  bối  rối  nghiêm  trọng  đối  với  thuyết duy Chủ  quan  Đơn  giản,  thì  chúng  lại  kém  hiệu  quả  hơn  đối  với  thuyết Duy cảm.

1.  Lập  luận  đầu  tiên  liên  quan  đến  sự  bất  đồng  về  mặt  luân lý.  Nếu  thuyết duy Chủ  quan  Đơn  giản  là  đúng,  thì  khi  một  người  nói,  “X  là  chấp  nhận  được  về  mặt  luân lý,”  và  người  khác  nói,  “X  là  không  thể  chấp  nhận  được  về  mặt  luân lý,”  họ  không  thực  sự  bất  đồng.  Thay  vào  đó,  họ  đang  nói  về  những  điều  khác  nhau:  mỗi  người  đang  đưa  ra  lời  khẳng  định  về  thái  độ  của  chính  mình  –  một  lời  khẳng  định  mà  người  kia  không  tranh  cãi.  Nhưng,  lập  luận  đi,  những  người  như  vậy  thực  sự  không  đồng  ý.  Do  đó,  thuyết duy Chủ  quan  Đơn  giản không  thể  đúng.

Đáp  lại, thuyết Duy cảm nhấn  mạnh  rằng  sự  bất  đồng  xảy  ra dưới  các  hình  thức  khác  nhau.  So  sánh  hai  loại  bất  đồng  này:

• Tôi  tin  rằng  Lee  Harvey  Oswald  đã  hành  động  một  mình  trong  vụ  ám  sát  Tổng  thống  John  F.  Kennedy,  và  bạn  tin  rằng  có  một  âm  mưu.  Đây  là  sự  bất  đồng  về  những dự kiện  -  tôi  tin  điều  gì  đó  là  đúng  mà  bạn  tin  là  sai.

  • Tôi  ủng  hộ  Atlanta  Braves  giành  chiến  thắng,  còn  bạn  lại  muốn  họ  thua.  Niềm  tin  của  chúng  tôi  không  xung  đột,  nhưng  mong  muốn  của chúng  tôi  là  -  tôi  muốn  điều  gì  đó  xảy  ra  mà  bạn  không  muốn  xảy  ra.

Trong  trường  hợp  đầu  tiên,  chúng  tôi  tin  những  điều  khác  nhau,  cả  hai  đều  không  thể  đúng.  Stevenson  gọi  sự  bất  đồng  này  trong  niềm  tin.  Trong  trường  hợp  thứ  hai,  chúng  tôi  muốn  kết  quả  khác  nhau,  cả  hai  đều  không  thể  xảy  ra.  Stevenson  gọi  đây  là  sự  bất  đồng  về  thái  độ.  Như  Stevenson  quan  sát,  chúng  ta  có  thể  không  đồng  ý  về  thái  độ  ngay  cả  khi  chúng  ta  không  đồng  ý  về  niềm  tin.  Ví  dụ,  bạn  và  tôi  có  thể  có  tất  cả  niềm  tin  giống  nhau  về  đội  bóng  chày  Atlanta  Braves:  cả  hai  chúng  tôi  đều  tin  rằng  các  cầu  thủ  của  Braves  được  trả  lương  cao;  cả  hai  chúng  tôi  đều  tin  rằng  tôi  ủng  hộ  Braves  chỉ  vì  tôi  đến  từ  miền  Nam;  và  cả  hai  chúng  tôi  đều  tin  rằng  Atlanta  không  phải  là  một  thị  trấn  bóng  chày  tuyệt  vời.  Tuy  nhiên,  bất  chấp  tất  cả  những  điểm  chung (common ground) này - bất  chấp  sự  đồng  thuận  về  niềm  tin  của  chúng  ta - chúng  ta  vẫn  có  thể  khác  nhau  về  thái  độ:  Tôi  có  thể  vẫn  muốn  Braves  thắng,  và  bạn  có  thể  vẫn  muốn  họ  thua.

Theo  Stevenson,  bất  đồng luân lý (moral disagreement) chỉ  là  bất  đồng  về  thái  độ.  Quan  điểm  của  Matt  Foreman  về  đồng tính  rất  khác  với  quan  điểm  của  Michele  Bachmann,  ngay  cả  khi  Foreman  và  Bachmann  đồng  ý  về  mọi  sự  thật.  Vì  vậy,  đối  với  thuyết Duy cảm,  xung  đột  luân lý  là  có  thật.  Ngược  lại,  thuyết duy Chủ  quan  Đơn  giản  giải  thích  sự  bất  đồng  về  luân lý  là  sự bất  đồng  về  niềm  tin - các  phán  đoán  đạo  đức  thể  hiện  niềm  tin  về  thái  độ  của  người  nói - vì  vậy,  khi  mọi  người  không  đồng  ý,  họ  phải  không  đồng  ý về  thái  độ  của  người  nói.  Tuy  nhiên,  điều  này  có  được  những  điều  sai  lầm. Foreman  và  Bachmann  không  đồng  ý  về  đồng  tính  luyến  ái,  nhưng  họ  không  đồng  ý  về  thái  độ  của  chính  họ.

2.  Lập  luận  thứ  hai  là  nếu  thuyết duy Chủ thể  Đơn  giản  đúng,  thì  chúng  ta  luôn  đúng  trong  các  phán  đoán  luân lý (moral judgments)  của  mình.  Nhưng,  tất  nhiên,  không  phải  lúc  nào  chúng  ta  cũng  đúng.  Do  đó,  thuyết duy Chủ  thể Đơn  giản  không  thể  đúng.

Lập  luận  này  chỉ  có  hiệu  quả  vì  thuyết duy Chủ  thể  Đơn  giản  diễn  giải  các  phán  đoán  luân lý  như  những  phát  biểu  có  thể  đúng  hoặc  sai.  “Luôn  luôn  đúng”  có  nghĩa  là  phán  đoán  của  một  người  luôn  đúng;  và  thuyết  duy Chủ  thể  Đơn  giản  gán  cho  các  phán  đoán  luân lý  một  ý  nghĩa  sẽ  luôn  đúng,  miễn  là  người  nói  chân  thành.  Đó  là  lý  do  tại  sao,  theo  lý  thuyết  đó,  mọi  người  hóa  ra  luôn  luôn  đúng.  Mặt  khác,  thuyết Duy cảm  không  giải  thích  các  phán  đoán  luân lý  là  những  tuyên  bố  đúng  hay  sai.  Vì các mệnh  lệnh  và  các thể hiện thái  độ  không  thể  đúng  hay  sai, mọi  người  không  thể  “đúng” đối  với  chúng,  càng  không  thể  “luôn  đúng”. 

Do  đó,  thuyết  Duy cảm  cũng  tránh  sự  phản  đối  này  đối  với  thuyết Duy  Chủ  thể  Đơn  giản.  Tuy  nhiên,  nó  dễ  bị  khiếu  nại  liên  quan. Mặc  dù  không  phải  lúc  nào  chúng  tôi  cũng  đúng  trong  các  đánh  giá  của  mình,  nhưng  đôi  khi  chúng  tôi  đúng.  Đôi  khi  những  đánh  giá luân lý của  chúng  ta  là  đúng  và  đôi  khi  chúng  là  sai.  Tuy  nhiên,  những  người  theo  thuyết Duy cảm không  thể  nói  điều  này,  bởi  vì  họ  phủ  nhận  rằng  diễn  ngôn  luân lý là  nói  về  sự  thật.

  Hãy  xem  xét  ví  dụ  này.  Vào  ngày  26  tháng  1  năm  2004,  một  bé  gái  8  tuổi  tên  là  Katie  Shelton  đang  đi  bộ  trên  một  con  phố  ở  Seymour,  Indiana.  Đột  nhiên,  cô  phải  đối  mặt  với  hai  con  chó  săn,  mỗi  con  nặng  hơn  80  pound.  Những  con  chó  quật  ngã  Katie  và  cắn  cô  liên  tục.  Tuy  nhiên,  cuộc  sống  của  cô  bé  đã  được  cứu  bởi  hành  động  anh  hùng  của  Mark  Friedrich,  14  tuổi,  sống  gần  đó.  Khi  Mark  nhìn  thấy  những  gì  đang  xảy  ra,  anh  ta  lao  ra  khỏi  nhà  với  hai  cây  gậy  và  tấn  công  những  con  chó. Có  thể  đoán  trước  rằng  Mark  đã  bị  cắn,  nhưng  anh  ấy  đã  có  thể  giữ  những  con  chó  tránh  xa  Katie  cho  đến  khi  một  cảnh  sát  đến  với  một  khẩu  súng.  Cả  hai  đứa  trẻ  đều  bình  phục  vết  thương  (những  con  chó  thật không  may  mắn).

  Bây  giờ,  giả  sử  rằng  khi  nghe  câu  chuyện  này,  ai  đó  đã  nói  rằng  Mark  Friedrich  đã  hành  động  tồi  tệ:  “Nếu  anh  ta  là  một  đứa  trẻ  tốt,  anh  ta  sẽ  lo  việc  riêng  của  mình  và  ở  trong  nhà  của  anh  ta.”  Miễn  là  người  lạ  mặt  này  nói  một  cách  chân  thành,  Người  theo thuyết duy chủ  quan  đơn  giản  sẽ  phải  nói  rằng  phán  đoán  đạo  đức  của  anh  ta  là  đúng. Vị  thế của  người  theo  thuyết Duy  cảm thì  khác,  nhưng  giống  như  Người  theo  thuyết Duy  Chủ  thể  Đơn  giản,  cô  ấy  bị  cấm  nói  rằng  phán  đoán  của  người  này  là  sai.  Cô  ấy  phải  nói  rằng  anh  ấy  chỉ  đang  bày  tỏ  cảm  xúc  của  mình.

Mặc  dù  thuyết duy cảm là  một  cải  tiến  của  thuyết duy  Chủ  thể  Đơn  giản,  nhưng  cả  hai  lý  thuyết  đều  ngụ  ý  rằng  các  phán  đoán  lân lý   của  chúng  ta,  theo  một  nghĩa  nào  đó,  không  thể  chê  trách  được.  Đối  với  thuyết  Chủ thể  Đơn  giản,  các  phán  đoán  của  chúng  ta  không  thể  bị  phê bình  vì  chúng  sẽ  luôn  đúng.  Đối  với  thuyết duy cảm,  những  đánh  giá  luân lý  của  chúng  ta  không  thể  bị  chỉ  trích  bởi  vì  chúng  không  phải  là  những  đánh  giá  nào  cả;  chúng  chỉ  là  những  biểu  hiện đơn thuần  của  thái  độ,  điều mà không  thể  sai  được.  Đó  là  một  vấn  đề  đối  với  thuyết duy cảm.  Một  vấn  đề  khác  là  thuyết duy cảm không  thể  giải  thích  vai  trò  của  lý  trí  trong  đạo  đức.

3.5.  Vai  trò  của  lý  trí  trong  đạo  đức

Nếu  ai  đó  nói,  “Tôi  thích  những quả  đào,”  cô  ấy  không  cần  phải  có  lý  do;  cô  ấy  có  thể  đang  đưa  ra  tuyên  bố  về  sở  thích  cá  nhân  của  mình  và  không  có  gì  hơn  thế.  Nhưng  những  đánh  giá  về  luân lý thì  khác.  Nếu  như ai  đó  nói  với  bạn  rằng  một  hành  động  cụ  thể  sẽ  là  sai,  bạn  có  thể  hỏi  tại  sao  và  nếu  không  có  câu  trả  lời  thỏa  đáng,  thì  bạn  có  thể  bác  bỏ  lời  khuyên  đó  vì  cho  rằng  không  có  cơ  sở.  Một  đánh  giá  về  luân lý - hay  bất  kỳ  loại  đánh  giá  nào  về  giá  trị - phải  được  hỗ  trợ  bởi  những  lý  do  chính  đáng.  Bất  kỳ  lý  thuyết  đầy  đủ  nào  về  đạo  đức  đều  có  thể  giải  thích  lý  do  có  thể  hỗ  trợ  cho  các  phán  đoán  luân lý  như  thế  nào.

  Những  người  theo  thuyết Duy cảm  nói  gì  về  lý  trí (reasons)?  Hãy  nhớ  rằng  đối  với  người  theo  thuyết Duy cảm,  những  đánh  giá  luân lý  có  hai  chức  năng:  thể  hiện  thái  độ  của  một  người  và  cố  gắng  tác  động  đến  thái  độ  và  hành  vi  của  người  khác.  Chức  năng  biểu  đạt  của  ngôn  ngữ  luân lý  có  thể  tìm  thấy  một  nơi  cho  lý  trí?  Trong  chừng  mực  những  phán  đoán  luân lý chỉ  là  những  biểu  hiện  của  thái  độ,  chúng  giống  như  sở  thích  cá  nhân. Khi  tôi  nói,  “Để  mọi  người  được  tự  do  về  mặt  luân lý  tốt  hơn  là  bắt  họ  làm  nô  lệ,”  người  theo  thuyết Duy cảm  sẽ  nghe  điều  này  tương  tự  như  “Quả  đào  tốt  hơn  táo”.  Người  theo  thuyết Duy cảm  có  thể  nhận  ra  một  số  khác  biệt  giữa  hai  cách  nói  đó.  Tuy  nhiên,  về  cơ  bản  chúng  giống  nhau.  Lý  trí  không  thể  đóng  vai  trò  quan  trọng  nào  ở  đây.

  Do  đó,  những  người  theo  thuyết Duy cảm  thường  nhìn  vào  chức  năng  mệnh  lệnh  của  ngôn  ngữ luân lý  để  tìm  ra  vai  trò  của  các  lý  trí.  Giả  sử  tôi  đã  nói  với  bạn  vào  năm  2008,  “Bạn  không  nên  bỏ  phiếu  cho  Barack  Obama.”  Nếu  câu  nói  này  giống  như  một  mệnh  lệnh  -  nếu  nó  giống  như  nói,  "Đừng  bỏ  phiếu  cho  Obama"  -  thì  lý  do  có  thể  đóng  vai  trò  gì  trong  một  phán  đoán  như  vậy?  Nếu  tôi  đang  cố  gắng  tác  động  đến  hành  vi  của  bạn,  thì  có  lẽ  người  theo  thuyết Duy cảm  nên  nói  rằng  lý  do  là  bất  kỳ  sự  cân  nhắc  nào  sẽ  ảnh  hưởng  đến  hành  vi  của  bạn.  Nhưng  hãy  xem  xét  điều  này  có  nghĩa  là  gì.  Giả  sử  tôi  biết  rằng  bạn  có  thành  kiến  với  người  Hồi  giáo.  Và  tôi  nói,  "Obama,  bạn  biết  đấy,  là  một  người  Hồi  giáo."Đó  là  mẹo;  bây  giờ  bạn  quyết  định  không  bỏ  phiếu  cho  Obama. Đối  với  những  người  theo  thuyết Duy cảm ,  tuyên  bố  rằng  Obama  là  một  người  Hồi  giáo  sẽ  là  một  lý  do  luân lý để  không  bỏ  phiếu  cho  ông,  nếu  được  đưa  ra  đúng  đối  tượng.  Trên  thực  tế,  Stevenson  có  chính  xác  quan  điểm  này.  Trong  tác  phẩm  kinh  điển  Đạo đức và ngôn ngữ (Ethics  and  Language  (1944)),  ông  nói,  “Bất  kỳ  phát  biểu  nào  về  bất  kỳ  vấn  đề  thực  tế  nào  mà  bất  kỳ  diễn  giả  nào  cho  là  có  khả  năng  thay  đổi  thái  độ  đều  có  thể  được  viện  dẫn  như  một  lý  do  ủng  hộ  hoặc  chống  lại  một  phán  xét  luân lý.”

  Rõ  ràng,  một  cái  gì  đó  đã  đi  sai.  Không  phải  bất  kỳ  khiếu  nại  nào  cũng  có  thể  được  coi  là  lý  trí  hỗ  trợ  cho  bất  kỳ  phán  quyết  nào.  Đối  với  một  điều,  nó  phải  phù  hợp  với  phán  đoán  và  ảnh  hưởng  tâm  lý  không  phải  lúc  nào  cũng  mang  lại  sự  phù  hợp  với  nó.  Là  người  Hồi  giáo  không  liên  quan  đến  khả  năng  trở  thành  một  tổng  thống  tốt  của  một  người,  bất  kể  mối  liên  hệ  tâm  lý  trong  tâm  trí  của  bất  kỳ  ai.  Ngoài  ra,  để  được một  lý trí  chính  đáng,  một  tuyên  bố  phải  đúng,  và  những  tuyên  bố  sai  có  thể  thuyết  phục.  Tổng  thống  Obama  trên  thực  tế  không  phải  là  một  người  Hồi  giáo.

  Có  hai  bài  học  được  rút  ra  từ  điều  này.  Theo thuyết Duy cảm, bài  học  nhỏ  là  một  lý  thuyết  luân lý cụ  thể,  là  thiếu  sót,  điều  này  gây  nghi  ngờ  cho  toàn  bộ  ý  tưởng  của  thuyết Duy Chủ  thể Đạo  đức.  Bài  học  lớn  hơn  liên  quan  đến  tầm  quan  trọng  của  lý  trí  trong  đạo  đức.

Hume  nói  rằng  nếu  chúng  ta  xem  xét  những  hành  động  xấu  xa - “chẳng  hạn  như  cố  ý  giết  người” - chúng  ta  sẽ  không  tìm  thấy  “vấn đề của dữ kiện”  hay  phản  ứng  nào  đối  với  sự  xấu  xa  đó.  Vũ  trụ,  ngoài  thái  độ  của  chúng  ta,  không  chứa  những  dữ kiện  như  vậy.  Chúng ta  có  thể  kết  luận  gì  từ  điều  này?  Phải thừa nhận rằng giá trị không phải là thứ  hữu  hình  như  một  hành  tinh  hay  một  cái  thìa.  Nhưng điều này không có nghĩa là đạo đức không có  cơ  sở  khách  quan. Một sai  lầm  cơ  bản  mà  nhiều  người  mắc  phải  là  chỉ  giả  định  hai  khả  năng:

1. Có những  sự  thật  luân lý,  giống  như  có  những  hành  tinh  và  những  chiếc  thìa.

  2. Giá trị  của  chúng  ta  không  gì  khác  hơn  là  sự  thể  hiện  cảm  xúc  chủ  quan  của  chúng  ta.

Đây là  một  sai  lầm  vì  nó  bỏ  qua  khả  năng  thứ  ba. Mọi người không chỉ  có  cảm  xúc  mà  còn  có  lý  trí,  và  điều  đó  tạo  nên  sự  khác  biệt  lớn.  Có thể là  

  3.  Chân lý  luân lý  là  chân  lý  của  lý  trí;  nghĩa  là,  một phán  đoán  luân lý  là  đúng  nếu  nó  được  hỗ  trợ  bởi  những  lý trí  tốt  hơn  so  với  những  lựa  chọn  thay  thế.

  Theo quan  điểm  này,  các  sự  thật  luân lý  là  khách  quan  theo  nghĩa  là  chúng  đúng  độc  lập  với  những  gì  chúng  ta  có  thể  muốn  hoặc  nghĩ.  Chúng  ta  không  thể  làm  điều  gì  đó  tốt  hay  xấu  chỉ  bằng  cách  mong  muốn  nó  như  vậy,  bởi  vì  ý  chí  của  chúng  ta  không  thể  xác  định  được những lý  trí  là  gì.  Và  điều  này  cũng  giải  thích  khả  năng  sai  lầm  của  chúng  ta:  Chúng  ta  có  thể  sai  về  điều  gì  là  tốt  hay  xấu  bởi  vì  chúng  ta  có  thể  sai  về  điều  mà  lý  trí  khuyến  nghị. Lý  trí  nói  những  gì  nó  nói,  bất  kể  ý  kiến  hay  mong  muốn  của  chúng  ta  là  gì.

3.6. Trong Đạo đức học có bằng chứng không?

Nếu trong Đạo đức học, Chủ nghĩa duy Chủ thể không đúng, thì tại sao lại có nhiều người bị nó thu hút? Có lý do cho là khoa học cung cấp hệ hình về tính khách quan, nhưng đạo đức học dường như thiếu điều đó, khi chúng ta so sánh đạo đức học với khoa học. Ví dụ, có bằng chứng trong khoa học, nhưng trong đạo đức học thì không. Chúng ta có thể chứng minh trái đất này tròn, khủng long xuất hiện trước con người, và không có số nguyên tố lớn nhất. Nhưng chúng ta không thể chứng minh việc phá thai là chấp nhận được hay không. 

Có ý kiến chung cho rằng, không thể chứng minh được các phán đoán đạo đức có vẻ hấp dẫn. Bất cứ ai đã từng tranh luận về một vấn đề nào đó như phá thai thì đều biết rằng, việc cố gắng “chứng minh” ý kiến của mình có thể gây khó chịu như thế nào. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét ý tưởng này kỹ hơn, thì hóa ra nó là một sai lầm.

Chúng ta thử xem xét điều gì đó đơn giản hơn nhiều so với phá thai. Một sinh viên nói rằng bài kiểm tra là không công bằng. Đây rõ ràng là một phán đoán đạo đức - sự công bằng là một giá trị đạo đức cơ bản. Phán đoán này có thể chứng minh được không? Sinh viên có thể chỉ ra rằng, bài kiểm tra bao gồm rất nhiều nội dung không quan trọng, trong khi bỏ qua nội dung mà giáo viên đã nhấn mạnh là quan trọng. Bài kiểm tra cũng bao gồm các câu hỏi không được đề cập trong các bài đọc hoặc các cuộc thảo luận trên lớp. Hơn nữa, bài kiểm tra thì quá dài nên không ai có thể hoàn thành nó đúng giờ. 

Giả sử tất cả điều này đúng. Hơn nữa, khi được yêu cầu giải thích, giáo viên đã không thể đưa ra lời bào chữa nào cả. Trên thực tế, là người khá thiếu kinh nghiệm nên  giáo viên có vẻ bối rối về toàn bộ sự việc này. Bấy giờ, không phải học sinh đã chứng minh rằng bài kiểm tra là không công bằng sao? Chúng ta còn muốn gì hơn nữa trong việc chứng minh? Sẽ dễ dàng hơn khi suy nghĩ những ví dụ khác tương tự thế: 

• Jones là một người nam giới xấu: Jones là một kẻ chuyên nói dối; hay đùa giỡn với mọi người; gian lận khi chơi bài; và đã từng giết người trong một cuộc tranh chấp 27 xu.

• Tiến sĩ Smith là người vô trách nhiệm: Ông ta chẩn đoán dựa trên những cân nhắc hời hợt; từ chối nghe lời khuyên của các đồng nghiệp; và còn uống bia trước khi thực hiện ca phẫu thuật tinh vi nữa. 

• Một đại lý xe cũ nào đó là phi đạo đức: Anh ta che giấu những khiếm khuyết của các xe đi; cố gắng gây áp lực để buộc mọi người phải trả giá cao hơn; chạy các quảng cáo gây hiểu lầm trên Web.

Tiến trình đưa ra lý do có thể phải đi thêm một bước nữa. Nếu chúng ta chỉ trích Jones là một kẻ chuyên nói dối, chúng ta có thể tiếp tục giải thích tại sao nói dối là xấu. Thứ nhất, vì nó làm hại người khác. Nếu tôi cung cấp cho bạn thông tin giả và bạn tin nó, mọi thứ có thể trở nên tồi tệ với bạn theo mọi cách. Thứ hai, vì nó vi phạm lòng tin. Tin tưởng ai đó có nghĩa là khiến bản thân dễ bị tổn thương và không được bảo vệ. Khi tôi tin tưởng bạn, tôi chỉ tin những gì bạn nói, mà không cần đề phòng; và khi bạn nói dối là bạn đang lợi dụng lòng tin của tôi. Và cuối cùng, quy tắc đòi hỏi sự trung thực là cần thiết để xã hội tồn tại - nếu chúng ta không thể thừa nhận rằng người khác sẽ nói thật, thì không thể giao tiếp, và nếu thế thì xã hội sẽ tan rã. 

Vì vậy, chúng ta có thể chứng minh các phán đoán của mình với những lý do chính đáng, và có thể giải thích được tại sao những lý do đó lại quan trọng. Nếu chúng ta có thể làm tất cả những điều này, vả lại thấy rằng, ở phía đối lập, không có trường hợp nào có thể so sánh được thực hiện, thì ai còn có thể muốn gì hơn nữa trong việc “chứng minh”? Trước tất cả những điều này, thật vô lý khi nói rằng, những phán đoán đạo đức không là gì khác ngoài “ý kiến”. 

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng những phán đoán đạo đức mà “không thể chứng minh được” vẫn tồn tại dai dẳng cách đáng kể. Tại sao mọi người tin điều này? Chúng ta có thể nêu ra ba điểm sau. 

Thứ nhất, khi cần bằng chứng, người ta thường muốn có bằng chứng khoa học. Họ muốn điều gì đó giống như kiểm chứng bằng thực nghiệm. Vì những phán đoán về đạo đức không thể được kiểm tra bằng thực nghiệm, nên họ nói rằng không có bằng chứng. Nhưng trong đạo đức, tư duy hợp lý bao gồm việc đưa ra lý do, phân tích lập luận, thiết lập và biện minh cho các nguyên tắc, v.v. Thực tế là lý luận đạo đức khác với lý luận khoa học cũng không làm cho nó thiếu bằng chứng. 

Thứ hai, khi chúng ta nghĩ đến việc chứng minh các quan điểm đạo đức của mình, chúng ta có xu hướng nghĩ đến những vấn đề khó khăn nhất. Ví dụ, vấn đề phá thai vô cùng phức tạp. Nếu chúng ta chỉ xem xét các vấn đề như phá thai, thì rất dễ tin rằng trong đạo đức học, không thể có “bằng chứng”. Đối với khoa học cũng tương tự thế. Có những vấn đề phức tạp mà các nhà vật lý không thể đồng thuận với nhau; và nếu chúng ta tập trung hoàn toàn vào chúng, chúng ta có thể kết luận rằng, trong vật lý học cũng không có bằng chứng nào. Nhưng, tất nhiên, có nhiều vấn đề đơn giản hơn mà tất cả các nhà vật lý đều đồng ý với nhau được. Trong đạo đức học cũng thế, có nhiều vấn đề đơn giản mà tất cả những người có lý trí đều đồng ý. 

Cuối cùng, thật dễ dàng để kết hợp hai vấn đề thực sự rất khác nhau này: 

1. Chứng minh một ý kiến là đúng. 

2. Thuyết phục ai đó chấp nhận bằng chứng của bạn.

Khi lập luận của bạn không thuyết phục được khán giả, bạn sẽ có xu hướng nghĩ rằng, “ồ, mình đã thất bại”. Tuy nhiên, lập luận đó có thể đã thất bại chỉ vì khán giả của bạn bảo thù, hoặc thiên vị, hoặc không thực sự lắng nghe bạn. Lập luận của bạn có thể đã hoàn hảo, và như thế, nó sẽ là một bằng chứng. 

3.7. Vấn đề đồng tính luyến ái

Hãy trở lại với cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái. Nếu chúng ta xem xét các lý do có liên quan, chúng ta thấy gì? Thực tế thích hợp nhất là những người đồng tính đang theo đuổi một kiểu sống duy nhất có thể khiến họ hạnh phúc. Xét cho cùng, tình dục là một sự thôi thúc đặc biệt mạnh mẽ, ít người có thể hạnh phúc mà không cần thỏa mãn nhu cầu tình dục. 

 Nhưng chúng ta không nên chỉ tập trung vào tình dục. Đồng tính luyến ái không đơn thuần là bạn quan hệ tình dục với ai; nhưng là về người mà bạn yêu. Người đồng tính cũng yêu như cách mà người dị tính yêu nhau. Và, giống như người dị tính, người đồng tính thường muốn ở bên, chung sống và xây dựng cuộc sống với người họ yêu. Do đó, nói rằng những người đồng tính luyến ái không nên hành động theo khao khát của họ là kết án họ với cuộc sống đầy thất vọng. Cũng cần nói thêm rằng những người đồng tính không tránh khỏi sự bức xúc khi chọn trở thành người dị tính. Cả người đồng tính và dị tính đều khám phá ra họ là ai, khi họ đến một độ tuổi nhất định nào đấy; không ai quyết định giới tính nào sẽ bị thu hút. 

Tại sao nhiều người phản đối quyền của người đồng tính? Một số người cho rằng người đồng tính gây nguy hiểm cho người khác. Những người đồng tính nam có thể là những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em, thông thường họ bị buộc tội như vậy, cho dù là đã công bố hay chưa. Ví dụ, đã có một số chiến dịch ở Mỹ kêu gọi sa thải các giáo viên là người đồng tính khỏi các trường công, và nỗi sợ hãi về ấu dâm luôn nổi lên trong các cuộc thảo luận này. Nữ nghị sĩ Bachmann đã khai thác nỗi sợ hãi này khi nói về hôn nhân đồng tính, “Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, bởi vì chính con cái của chúng ta là điều ước vọng cho cộng đồng này—[cộng đồng người đồng tính] đang nhắm mục tiêu cụ thể vào con cái chúng ta.” Tuy nhiên, một nỗi sợ hãi như vậy chưa bao giờ có bất kỳ cơ sở nào trên thực tế. Đó chỉ là một khuôn mẫu, giống như ý kiến cho rằng người da đen lười biếng hoặc người Hồi giáo là những kẻ khủng bố. 

Không có sự khác biệt nào giữa người đồng tính và dị tính về tư cách đạo đức hoặc đóng góp của họ cho xã hội. 

Sự phản đối phổ biến nhất đối với đồng tính luyến ái có thể là nó “phi tự nhiên”. Chúng ta nên làm gì đây? Để đánh giá lập luận trên, chúng ta cần biết “phi tự nhiên” nghĩa là gì. Dường như có ba khả năng.

Đầu tiên, "phi tự nhiên" có thể được coi là một khái niệm thống kê. Theo nghĩa này, phẩm chất của con người là phi tự nhiên nếu hầu hết mọi người không có nó. Người đồng tính sẽ là phi tự nhiên theo nghĩa này, nhưng là người thuận tay trái, cao và thậm chí là vô cùng tốt bụng. Rõ ràng, đây không phải là lý do để chỉ trích đồng tính luyến ái. Những phẩm chất hiếm có thường tốt. 

Thứ hai, ý nghĩa của “phi tự nhiên” có thể được kết nối với ý tưởng về mục đích của một sự vật. Các bộ phận của cơ thể chúng ta dường như phục vụ cho những mục đích riêng biệt. Mục đích của mắt là để nhìn, và mục đích của tim là bơm máu. Tương tự như vậy, mục đích của bộ phận sinh dục của chúng ta là để sinh sản: Tình dục là để sinh em bé. Do đó, có thể lập luận rằng quan hệ tình dục đồng tính là phi tự nhiên, bởi vì đó là hoạt động tình dục tách rời khỏi mục đích tự nhiên của nó. 

Điều này dường như bày tỏ suy nghĩ của nhiều người khi họ phản đối đồng tính luyến ái là phi tự nhiên. Tuy nhiên, nếu quan hệ tình dục đồng tính bị lên án vì lý do này, thì một số tập tục khác, được chấp nhận rộng rãi cũng sẽ phải bị lên án: thủ dâm, quan hệ tình dục bằng miệng, quan hệ tình dục bằng bao cao su và thậm chí cả quan hệ tình dục của phụ nữ khi mang thai hoặc sau khi mãn kinh. Những thực hành này cũng là “phi tự nhiên” (và có lẽ là tệ hại) như quan hệ tình dục đồng tính. Nhưng không có lý do gì để chấp nhận những kết luận này, bởi vì toàn bộ lập luận này đều sai lầm. Nó dựa trên giả định rằng, việc sử dụng các bộ phận của cơ thể cho bất kỳ mục đích nào khác ngoài mục đích tự nhiên của chúng là sai. Tại sao chúng ta nên chấp nhận giả định đó? “Mục đích” của mắt là để nhìn; do đó, dùng mắt để tán tỉnh hay ra hiệu có phải là sai không? “Mục đích” của các ngón tay có thể là để nắm và chọc; vậy, búng ngón tay để thu hút sự chú ý của ai đó có sai không? Không thể duy trì ý tưởng rằng mọi thứ chỉ nên được sử dụng theo cách “tự nhiên”; và do đó, hình thức lập luận này không thành công.

Thứ ba, vì từ phi tự nhiên nghe có vẻ như một cái gì đó xấu xa, nó có thể được hiểu đơn giản là một thuật ngữ đánh giá. Có lẽ nó là cái gì đó giống như “trái ngược với những gì một người nên trở thành.” Nhưng nếu đó là ý nghĩa của “phi tự nhiên”, thì việc nói rằng đồng tính luyến ái là sai vì nó phi tự nhiên sẽ là sáo rỗng. Nó giống như nói rằng đồng tính luyến ái là sai vì nó sai. Loại nhận xét trống rỗng đó không cung cấp lý do để lên án bất cứ điều gì. Ý tưởng cho rằng đồng tính luyến ái là phi tự nhiên, và do đó nó phải là vô đạo đức, dường như đúng với nhiều người. Tuy nhiên, đó là một lập luận không có căn cứ. Nó thất bại trên mọi giải thích.

Nhưng còn lời khẳng định thường được đưa ra rằng đồng tính luyến ái là “trái với các giá trị gia đình” thì sao? James Dobson, người sáng lập nhóm Ki-tô hữu bảo thủ, Tập trung vào Gia đình, nói với những người theo ông: “Trong hơn 40 năm, phong trào đấu tranh cho người đồng tính luyến ái đã tìm cách thực hiện một kế hoạch tinh vi lấy trọng tâm là sự hủy diệt hoàn toàn gia đình”. Nhưng chính xác thì những người đồng tính luyến ái đang cố gắng phá hoại gia đình như thế nào? Các nhà hoạt động đồng tính đang thực sự cố gắng mở rộng gia đình. Họ không muốn lấy bất kỳ quyền nào từ các cặp vợ chồng khác giới. Thay vào đó, họ muốn tạo điều kiện dễ dàng hơn cho những người đồng tính lập gia đình—họ ủng hộ hôn nhân đồng giới, quyền lợi cho bạn đời sống chung, quyền nhận con nuôi của các cặp đồng tính, v.v. Những người đồng tính thấy thật mỉa mai khi những người ủng hộ “gia đình” muốn ngăn cản họ lập gia đình.

Có lẽ tất cả cuộc nói chuyện về “giá trị gia đình” này thực sự có nghĩa là: “Hãy đảm bảo rằng chúng ta không có những gia đình như thế.” Nhưng nếu vậy, thì câu hỏi đặt ra: Có gì sai với một gia đình mà con cái được nuôi dạy bởi hai người mẹ hoặc hai người cha? Tâm lý chung cho rằng hai cha mẹ tốt hơn một: nuôi dạy con cái là một nhiệm vụ to lớn và hai người có thể thực hiện những nhiệm vụ lớn dễ dàng hơn một người. Nhưng ngay cả khi số lượng cha mẹ trong một hộ gia đình là quan trọng, thì không rõ tại sao giới tính của họ lại như vậy. 

Nghiên cứu lớn nhất về các gia đình đồng tính là Nghiên cứu Gia đình Đồng tính nữ theo chiều dọc Quốc gia Hoa Kỳ, đã theo dõi một nhóm các bà mẹ đồng tính từ những năm 1980. Dữ liệu của họ cho thấy rằng những đứa trẻ vị thành niên của những người đồng tính nữ thực sự làm tốt hơn những đứa trẻ từ những gia đình truyền thống. Đôi khi con cái của cha mẹ đồng tính bị chế giễu ở trường và điều này thật khó khăn đối với chúng. Tuy nhiên, nhìn chung, những đứa trẻ này có ít vấn đề về hành vi hơn và chúng làm tốt hơn cả về mặt xã hội và học tập so với các bạn cùng trang lứa. Không có lý do chính đáng để chống lại các gia đình đồng tính.

Trong khi đó, những người đồng tính luyến ái ở Mỹ tiếp tục bị thiệt thòi. Đôi khi bất lợi là một vấn đề của pháp luật. Về mặt pháp lý, những người dị tính có thể kết hôn ở bất kỳ bang nào, nhưng hôn nhân đồng tính chỉ tồn tại một phần hai của liên bang. Hơn nữa, chính phủ liên bang không công nhận hôn nhân đồng tính là hợp pháp, và vì vậy nó chỉ cung cấp lợi ích hôn nhân cho các cặp dị tính. Có hàng trăm lợi ích như vậy, bao gồm các lợi ích an sinh xã hội mà người phối ngẫu có thể nhận được sau cái chết của người phối ngẫu kia. Cuối cùng, ở Florida và Arkansas, những người đồng tính không thể nhận con nuôi một cách hợp pháp, mặc dù, tất nhiên, những người khác giới tính cũng có thể. Luật pháp ở Mỹ chắc chắn phân biệt đối xử với người đồng tính.

 Tuy nhiên, ở nhiều nơi khác, luật thậm chí còn cực đoan hơn. Ở 76 quốc gia, quan hệ tình dục đồng giới là bất hợp pháp. Ở một số quốc gia, hình phạt là cái chết.

Ngoài luật pháp, có những hạn chế xã hội đối với người đồng tính ở Mỹ. Thật khó khăn khi lớn lên ở một nơi mà bốn phần mười hàng xóm của bạn tin rằng có điều gì đó không ổn với bạn. Tệ hơn nữa, bạn thấy rằng một số người hàng xóm của bạn thật đáng ghét—họ từ chối bạn và coi bạn ít là con người hơn. Đặc biệt đáng buồn khi một người trẻ được dạy là coi thường người đồng tính luyến ái bắt đầu nhận ra rằng mình là người đồng tính. Nhiều người đồng tính, dù vì sợ hãi hay xấu hổ, chọn cách sống khép kín. Nhưng về lâu dài, hầu như không thể che giấu giới tính của mình với bạn bè, thành viên gia đình và đồng nghiệp. Những người đồng tính ở Mỹ bị dẫn đến cuộc sống căng thẳng. Trong số các sinh viên đại học Mỹ, những người đồng tính có khả năng tự tử cao gấp đôi so với các bạn cùng lớp bình thường. Và những người đồng tính sống khép kín có khả năng thử nó cao gấp sáu lần.

Một lập luận nữa phải được thảo luận, đó là đồng tính luyến ái bị lên án trong Kinh thánh. Ví dụ, sách Lê-vi 18:22 nói: “Ngươi không được nằm với nam giới như nằm với đàn bà; đó là điều ghê tởm.” Một số nhà bình luận đã nói rằng, trái ngược với vẻ bề ngoài, Kinh thánh thực sự không quá khắc nghiệt đối với đồng tính luyến ái; và họ giải thích cách hiểu từng đoạn liên quan (dường như có chín đoạn). Nhưng giả sử chúng ta chấp nhận rằng Kinh thánh lên án đồng tính luyến ái, thì chúng ta có thể suy ra điều gì từ điều này? Chúng ta có nên tin những gì Kinh thánh nói chỉ vì nó nói như vậy không?

Câu hỏi này sẽ xúc phạm một số người. Họ tin rằng đặt câu hỏi về Kinh thánh là thách thức lời Chúa. Và họ cho rằng đây là một hành động kiêu ngạo đến từ những thụ tạo lẽ ra phải bày tỏ lòng biết ơn đối với Đấng Toàn năng. Việc đặt câu hỏi về Kinh Thánh cũng có thể khiến người ta cảm thấy không thoải mái, bởi vì nó dường như thách thức toàn bộ lối sống của họ. Tuy nhiên, những suy nghĩ như thế này không thể giữ chúng ta lại. Triết học là đặt câu hỏi về toàn bộ cách sống. Khi lập luận được đưa ra rằng đồng tính luyến ái hẳn là sai vì Kinh thánh nói như vậy, thì lập luận này phải được đánh giá theo cách riêng của nó.

Vấn đề với lập luận là, nếu chúng ta nhìn vào những điều khác mà Kinh thánh nói, nó dường như không phải là một hướng dẫn đạo đức đáng tin cậy. Sách Lê-vi lên án đồng tính luyến ái, nhưng nó cũng cấm ăn mỡ cừu (7:23), cho phép một phụ nữ vừa mới sinh con vào nơi tôn nghiêm của nhà thờ (12:2–5), và nhìn thấy chú của bạn khỏa thân. Cái sau, giống như đồng tính luyến ái, được coi là một sự ghê tởm (18:14, 26). Tệ hơn nữa, sách Lê-vi kết án tử hình những kẻ nguyền rủa cha mẹ mình (20:9) và những kẻ phạm tội ngoại tình (20:10). Nó nói rằng con gái của một thầy tế lễ sẽ bị thiêu sống, nếu cô ấy “đóng vai gái điếm,” (21:9), và nó nói rằng chúng ta có thể mua nô lệ từ các quốc gia lân cận (25:44). Trong sách Xuất hành, thậm chí còn nói rằng đánh đập nô lệ của bạn cũng được, miễn là bạn không giết họ (21:20–21).

Mục đích của tất cả những điều này không phải là chế giễu Kinh thánh; trên thực tế, Kinh thánh chứa đựng nhiều điều đúng đắn và khôn ngoan. Nhưng chúng ta có thể kết luận từ những ví dụ như thế này rằng Kinh Thánh không phải lúc nào cũng đúng. Và bởi vì không phải lúc nào cũng đúng, nên chúng ta không thể kết luận rằng đồng tính luyến ái là một điều ghê tởm chỉ vì nó nói như vậy trong sách Lêvi.

Dù sao đi nữa, không có gì có thể đúng hay sai về mặt đạo đức chỉ vì một người có thẩm quyền nói như vậy. Nếu các giới luật trong một văn bản thiêng liêng không phải là tùy tiện, thì phải có một số lý do cho chúng—chúng ta có thể hỏi tại sao Kinh thánh lên án đồng tính luyến ái và sau đó nhận được câu trả lời. Câu trả lời đó sau đó sẽ đưa ra lời giải thích thực sự về lý do tại sao điều đó là sai.

Nhưng điểm chính của chương này không phải là về đồng tính luyến ái. Điểm chính liên quan đến bản chất của tư duy đạo đức. Tư duy đạo đức và hành vi đạo đức là vấn đề cân nhắc các lý do và được hướng dẫn bởi chúng. Nhưng được hướng dẫn bởi lý trí rất khác với việc làm theo cảm xúc của một người. Khi có cảm xúc mạnh mẽ, chúng ta có thể bị cám dỗ bỏ qua lý trí và chiều theo cảm xúc. Nhưng khi làm như vậy, chúng ta sẽ hoàn toàn từ chối tư duy đạo đức. Đó là lý do tại sao, khi tập trung vào thái độ và cảm xúc, Chủ nghĩa Chủ quan Đạo đức dường như đang đi sai hướng.

James Rachels

0 Comments: