Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 28 tháng 8, 2023

HẠNH PHÚC

 Hạnh Phúc


Thỏa mãn cảm xúc


Hạnh phúc luôn là niềm khao khát lớn nhất của con người. Tùy vào hiểu biết của mỗi người qua từng xã hội và từng thời đại, mà hạnh phúc được quan niệm một cách khác nhau. Những người cứ gặp phải xui rủi triền miên, nên họ quả quyết rằng trên đời này làm gì có hạnh phúc. Còn những người trẻ thì cứ mơ mộng hạnh phúc chắc hẳn rất tuyệt diệu và tin rằng nó chỉ nằm ở cuối con đường mình đang đi. Và hằng bao lớp người đã đi gần hết kiếp nhân sinh mà vẫn đuổi theo hạnh phúc như trò chơi cút bắt: có khi tóm được nó thì nó lại tan biến, có khi ngỡ mình tay trắng thì lại thấy nó chợt hiện về. Mặc dù ai cũng mong muốn có hạnh phúc, nhưng khi được hỏi hạnh phúc là gì thì phần lớn mọi người đều rất lúng túng. Họ định nghĩa một cách rất mơ hồ, hoặc chỉ mỉm cười trong mặc cảm.

Chẳng phải ta cũng như bất kỳ người trẻ nào, đã từng cảm thấy thật hạnh phúc khi cầm được mảnh bằng tốt nghiệp sau nhiều năm vật lộn với đèn sách đó sao? Thế nhưng, liền sau đó ta lại than phiền phải kiếm được việc làm có nhiều tiền, khiến bạn bè ai cũng nể phục thì mới thật sự hạnh phúc. Rồi cái cảm giác hạnh phúc ấy không ở lại bao lâu, ta lại nghĩ nếu không cưới được người mình yêu thì sao gọi là hạnh phúc. Và chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, ta lại trông đứng trông ngồi có một đứa con, rồi thêm đứa nữa cho vui nhà vui cửa, đẹp lòng hai họ. Những ngày tháng hạnh phúc ấy đến rồi đi vội vã, bây giờ ta lại ao ước được dọn ra riêng, được sở hữu một căn hộ đắt tiền thì mới gọi là hạnh phúc trọn vẹn. Rồi khi thấy bạn bè ai cũng chạy xe đời mới, con của họ học những trường danh tiếng, chức vụ của họ được nhiều người ngưỡng mộ, nên ta lại lo sợ nếu không theo kịp họ thì hạnh phúc mình đang có cũng chỉ là tầm thường, chẳng đáng vào đâu.

Ta cứ bỏ hình bắt bóng, đứng núi này trông núi nọ. Rốt cuộc, ta chẳng biết hạnh phúc là gì cả. Tuy ta cảm nhận được hạnh phúc chính là những cảm giác sung sướng, dễ chịu, thoải mái khi đạt được những gì mình mong muốn, nhưng ta không lý giải được tại sao những cảm giác ấy lại đến rồi đi quá vội vàng. Rồi ta cũng mặc kệ, chẳng buồn tìm hiểu thêm. Ta cứ sống theo thói quen cũ, dốc hết năng lượng để nắm bắt những thứ mà ta tin chắc nếu không có nó thì ta không thể nào hạnh phúc được. Thật lạ, ta không biết được cái gì ngay trong hiện tại có thể làm cho ta hạnh phúc, thì làm sao ta quả quyết những gì trong tương lai có thể làm cho ta hạnh phúc? Hạnh phúc có phải là vấn đề của thời gian hay không gian không? Hạnh phúc có cần hội đủ những điều kiện tối ưu cho nó không? Chẳng lẽ những người không có những điều kiện ấy thì họ không thể hạnh phúc sao?

Thật ra những điều kiện của hạnh phúc vẫn luôn có mặt, chỉ có điều nó không còn hấp dẫn ta nữa thôi. Không phải do nó mất đi tính hữu dụng mà do nhu cầu hưởng thụ của ta đã biến đổi, ta đã mau chóng nhàm chán. Một phần là do bản năng hưởng thụ trong ta quá lớn, một phần là do ta bị tác động sâu đậm bởi tâm thức xã hội. Đôi khi, ta vất vả cả chục năm trời để sắm cho bằng được một món đồ quý giá chỉ vì ta lo sợ nếu không có nó thì đời sống của mình sẽ không được an toàn, hoặc chỉ vì ta muốn chứng tỏ cho mọi người biết mình là ai, chứ ta có tận hưởng nó được bao nhiêu đâu. Mọi tranh đấu của ta chung quy cũng chỉ để có thật nhiều tiện nghi vật chất và tiện nghi tinh thần (danh dự), để thỏa mãn cảm xúc, phục vụ cho cái tôi ham thích hưởng thụ không biết dừng của mình.

Nếu cho rằng hạnh phúc chính là cảm xúc được thỏa mãn khi được hưởng thụ, thì ngay trong giây phút hiện tại này đây ta cũng đang nắm trong tay vô số điều kiện mà nhờ có nó ta mới tồn tại một cách vững vàng, vậy tại sao ta lại cho rằng mình chưa có hạnh phúc? Một đôi mắt sáng để nhìn thấy cảnh vật và những người thân yêu, một đôi chân khỏe mạnh có thể đi đến bất cứ nơi nào, một công việc ổn định vừa mang lại thu nhập kinh tế vừa giúp ta thể hiện được tài năng, một gia đình chan chứa tình thương giúp ta có điểm tựa vững chắc, một vốn kiến thức đủ để ta mở rộng tầm nhìn ra thế giới bao la, một tấm lòng bao dung để ta có thể gần gũi và chấp nhận được rất nhiều người Đó không phải là điều kiện của hạnh phúc thì là gì?Chỉ cần nhìn sâu một chút ta sẽ thấy mình đang sở hữu rất nhiều thứ,nhiều hơn mình tưởng. Vì thế, đừng vì một vài điều chưa toại nguyện mà ta vội than trời trách đất rằng mình là kẻ bất hạnh nhất trên đời. 

Một kẻ khôn ngoan thì không cần chạy thục mạng đến tương lai để tìm kiếm những thứ chỉ đem tới những cảm xúc nhất thời. Họ sẽ dành ra nhiều thời gian và năng lượng để khơi dậy và giữ gìn những giá trị hạnh phúc mình đang có. Không cần quá nhiều tiện nghi, chỉ cần sống một cách bình an và vui vẻ là ta đã có hạnh phúc rồi. Ngay khi đời sống chưa mấy ổn định, ta vẫn có thể hạnh phúc vì thấy mình còn may mắn giữ được thân mạng này. Hãy nhìn một người đang nằm hấp hối trong bệnh viện, một người đang cố ngoi lên từ trận động đất, một người vừa suýt mất đi người thân trong gang tấc, thì ta sẽ biết hạnh phúc là như thế nào. Hạnh phúc của họ rất đỗi bình thường: đôi khi chỉ là một hơi thở, một nắm cơm hay một cái nhìn nhau lần cuối. Cho nên, không có thứ hạnh phúc nào đặc biệt ở tương lai đâu, ta đừng mất công tìm kiếm. Có chăng, nó cũng chỉ là những trạng thái cảm xúc khác nhau mà thôi. Mà cảm xúc thì chỉ có nghiện ngập chứ có bao giờ đủ!

Thỏa mãn ý chí


Khi hay tin người thân đang bị kẹt trong cơn bão tuyết, tuy đang nằm trong nệm ấm chăn êm nhưng ta cũng không tài nào hạnh phúc được. Bấy giờ, ta không cần cái cảm giác sung sướng ấy nữa. Chỉ cần có mặt kịp thời để cứu giúp người thân, dù phải trải qua cái cảm giác lạnh buốt trong bão tuyết thì ta cũng hài lòng. Cũng như những bậc cha mẹ làm việc quần quật suốt ngày để kiếm tiền lo cho con ăn học thành tài. Tuy phải chấp nhận sự mệt nhọc thể xác, nhưng họ vẫn cảm thấy thật hạnh phúc vì đã làm tròn tâm nguyện. Cũng như những người hoạt động chính trị chấp nhận hy sinh để đóng góp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy bị khảo tra rất đau đớn nhưng họ vẫn thấy tự hào vì đã thực hiện được lý tưởng. Thế nên, hạnh phúc không chỉ là những cảm xúc dễ chịu, đôi khi ta phải hy sinh những cảm xúc ấy để đổi lấy thứ hạnh phúc sâu sắc hơn: đó là thỏa mãn ý chí.

Mặc dù thỏa mãn ý chí vẫn còn đứng trên nền tảng phục vụ cái tôi thực hiện cho bằng được điều mình muốn làm - nhưng đó là sự hưởng thụ rất tinh tế và phải để tâm sâu sắc lắm thì ta mới nhận ra. Nó vượt qua những đòi hỏi tầm thường của thói quen, dốc hết bảnnăng sinh tồn để chịu đựng, vận dụng tất cả những hiểu biết và kỹ năng luyện tập để xử lý. Vì thế, phẩm chất của nó chắc chắn sẽ bền vững hơn loại hạnh phúc chỉ đơn giản được tạo bằng những cơn cảm xúc. Bởi bản chất của cảm xúc luôn biến đổi không ngừng theo tâm thức và sự chi phối của những đối tượng xung quanh. Tức là, hạnh phúc được thỏa mãn cảm xúc bị điều kiện hóa nhiều hơn hạnh phúc khi được thỏa mãn ý chí.

Như vậy khi gặp hoàn cảnh khó khăn, đối đầu với những cảm giác không mấy dễ chịu, thì ta đừng vội chống trả. Hãy ý thức là mình đang thực hiện mục đích lớn lao, nên không thể đòi hỏi những tiện nghi hưởng thụ tầm thường được. Nếu lỡ mức khó khăn của hoàn cảnh lên tới đỉnh điểm, khiến cho cảm giác khó chịu biến thành khổ đau, thì ta cũng đừng vội bỏ chạy. Chính cái khổ đau ấy sẽ giúp ta nhận ra được giá trị của hạnh phúc. Cũng như đã từng bị đói, ta mới biết cái quý giá của thức ăn; đã từng chịu cái giá rét của mùa đông, ta mới mong đợi nắng ấm về; đã từng bị mất mát chia lìa, ta mới nâng niu từng phút giây đoàn tụ; đã từng trải qua tai nạn thập tử nhất sinh, ta mới yêu thương quá đỗi cuộc đời này. Cho nên ta đừng sợ khổ đau, cũng đừng chia cắt rạch ròi giữa hạnh phúc và khổ đau, vì nếu không có khổ đau thì ta sẽ không biết thế nào là hạnh phúc.

Nên nhớ, ngọc chỉ có trong đá và sen chỉ ở dưới bùn. Ngọc được kết tinh từ sỏi đá, sen được kết tinh từ bùn nhơ. Không thể nào tìm kiếm ngọc ở ngoài đá hay tìm kiếm sen ở ngoài bùn. Cũng vậy, không có cái hạnh phúc nào từ trên trời rơi xuống, cũng không có cái thiên đường nào chỉ toàn là hạnh phúc. Bởi ý niệm hạnh phúc chỉ có khi con người biết cảm nhận khổ đau. Hạnh phúc không thể thiếu khổ đau và cũng không thể tách rời với khổ đau. Vậy còn nơi nào tuyệt diệu hơn cõi đời này, vì nó có cả hạnh phúc lẫn khổ đau!

Hạnh phúc chân thật


Hạnh phúc khi được sống chung với người mình yêu thương thường không còn nguyên vẹn sau đôi ba năm. Hạnh phúc mua được căn nhà như ý thường không kéo dài quá đôi ba tháng. Hạnh phúc được thăng chức thường bị lãng quên ngay sau đôi ba tuần. Hạnh phúc được khen ngợi thường tan thành mây khói chỉ sau đôi ba tiếng. Rồi ta lại khát khao đi tìm và dễ dãi tin vào một đối tượng nào đótrong tương lai sẽ mang lại hạnh phúc lâu bền hơn. Hạnh phúc của ta quả thật ngắn ngủi. Đôi khi ta phải mất rất nhiều thời gian và năng lực để tạo dựng, nhưng rồi nó cứ bỏ mặc ta mà đi một cách tàn nhẫn. Tại vì ta đã vay mượn những điều kiện bên ngoài, nhồi nặn chúng thành những thứ để ta hưởng thụ, nên ta không làm chủ được nó là phải. Ta biết rất rõ nguyên do nhưng không thể làm khác hơn, vì ta không thể vượt qua nổi bóng tối tham lam quá lớn của chính mình. 

Thật ra, hạnh phúc thỏa mãn cảm xúc hay hạnh phúc thỏa mãn ý chí cũng đều xuất phát từ tâm của con người, chứ không phải do điều kiện bên ngoài. Nhưng đó là những phần tâm lý cạn, chưa thấy được giá trị sâu sắc bên trong của mình. Cái trạng thái tâm lý không muốn tìm kiếm thêm điều gì và không cần phải loại bất cứ điều gì mới chính là hạnh phúc chân thật. Nó bằng lòng và chấp nhận tất cả. Nó chân thật vì nó được tạo ra từ sự bình an của chính lòng mình, chứ không lệ thuộc vào những thuận cảnh bên ngoài. Chính vì thế mà người xưa hay nói lạc phải đi liền với an - an lạc - thì mới bền vững. Một người không có nhiều tiền, không có quyền lực, không được ai ngưỡng mộ, nhưng lúc nào cũng có thể mỉm cười và tiếp xúc sâu sắc với những giá trị mầu nhiệm trong thực tại, thì đó chẳng phải là mẫu người hạnh phúc sao? Sống như thế mới thật sự là đáng sống!

Tâm tham cầu và tâm chống đối thì ai cũng có. Nhiều người trải qua vài biến động lớn lao trong đời thì những năng lượng ấy đột nhiên suy giảm. Nhưng phần lớn đều phải siêng năng luyện tập từng ngày từng giờ thì mới chuyển hóa những thói quen lâu đời ấy. Thật ra, những mong cầu hay chống đối cũng chỉ là những phản ứng phục vụ cho cái tôi dại khờ của ta mà thôi. Chỉ cần ta nhận ra bản chất chân thật của mình, luôn sống trong tỉnh thức để biết rõ mình đang làm gì và với thái độ nào, tập buông bỏ dần những tham cầu và chống đối không cần thiết. Nhờ đó cái tôi bé nhỏ này sẽ tan chảy vào vũ trụ, nó sẽ vận hành đồng điệu với mọi người và vạn vật. Hạnh phúc trong ta sẽ rộng mở đến vô cùng. 

Có thể nói tâm ta như thế nào thì ta sẽ cảm nhận hạnh phúc như thế ấy. Bởi hạnh phúc vốn luôn có sẵn trong tâm ta - ở đây và ngay bây giờ.


Mỉm cười nhìn đóa hoa

Lòng nghi ngờ tan vỡ

Hạnh phúc ở đây rồi

Dại khờ tìm muôn thuở.


Minh Niệm

Chủ Nhật, 20 tháng 8, 2023

Tình Yêu

 

Tình Yêu

Ta còn quá yêu bản thân mình thì làm sao ta có thể yêu thêm người khác. Dù có yêu người khác cũng chỉ để phục vụ cho bản thân mình mà thôi.




Đã mang lấy một chữ tình

Người ta thường hay nói đùa với nhau: "Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ. Thà chịu khổ còn hơn chịu lỗ". Nói đùa mà thật. Dù được cảnh báo yêu là khổ như một nguyên tắc bất di bất dịch, nhưng hầu hết ai cũng chấp nhận khổ để có được cảm giác yêu. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng lên tiếng dùm ta: "Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào". Sống mà không yêu thương thì sự sống đâu còn ý nghĩa gì nữa. Hãy cứ yêu đi. Càng yêu ta sẽ thấy cuộc đời này càng thêm mầu nhiệm. Nếu sợ khổ mà không dám yêu thì ta có chắc là mình sẽ sống hạnh phúc hơn không? Đời sống còn nhiều thứ khác khiến ta khổ chứ đâu chỉ có mỗi tình yêu. Xung quanh ta có biết bao người dám "chịu khổ" để yêu thì tại sao ta phải sợ? Tình yêu có thật đáng sợ như ta nghĩ không?

 Yêu thương vốn là bản năng tự nhiên của con người. Nhưng nếu ta yêu thương con sông, yêu thương cánh đồng, yêu thương quê hương, yêu thương kẻ bất hạnh thì ta đâu có khổ. Đằng này đối tượng yêu thương của ta quá hấp dẫn, có thể đánh động vào cảm xúc khát khao của ta, có thể làm cho ta đêm nhớ ngày mong hay mất ăn bỏ ngủ, có thể khiến ta bất chấp tất cả để sở hữu được nó. Thi hào Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng này rất hay trong đoạn thơ: "Đã mang lấy một chữ tình/ Khư khư mình buộc lấy mình vào trong/ Vậy nên những chốn thong dong/ Ở không yên ổn ngồi không vững vàng/ Ma đưa lối quỷ đưa đường/ Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi". Khi cảm xúc yêu đương bùng vỡ thì ta không còn tự chủ được nữa, mọi nhận thức hay phản ứng đều vượt tầm kiểm soát. Ta cứ lầm lũi lao tới phía trước như kẻ mộng du, không ý thức được mình đang đi đâu dù sắp bước vào hầm hố chông gai. Người Tây phương gọi trạng thái ấy là "fall in love", tức là đang bị cuốn vào tình yêu, mà cũng có thể hiểu là đang bị té ngã trong tình yêu. 

Cảm xúc yêu đương mãnh liệt đến thế, nên nó lấn át lý trí và lấn át cả những liên hệ tình cảm sâu sắc khác. Chẳng trách sao ai yêu rồi thì ít nhiều cũng trở nên mù quáng. Ta thấy ở đối tượng mình yêu toàn một màu hồng tuyệt hảo, rất khác với cái thấy của mọi người. Vì thế, ta muốn tháo tung ranh giới cái tôi của mình ra, để mời người ấy bước vào. Dĩ nhiên, ta cũng muốn người ấy nhường chỗ cho ta một nửa trong trái tim họ. Thậm chí ta còn muốn dâng tặng cả cuộc đời mình cho họ, nên ta đã mạnh dạn tuyên bố "yêu hết mình". Thật ra, không ai đem hết con người của mình ra để yêu thương kẻ khác mà không mong muốn nhận lại điều gì cả. Lời tuyên bố ấy chẳng qua vì không kiềm chế nổi cơn cảm xúc muốn được thỏa mãn, hay vì muốn thấy giá trị của mình qua sự nâng niu của kẻ khác mà thôi. Bởi khi màu hồng ấy trong mắt ta nhạt phai thì trái tim ta không còn rung cảm nữa.

Tình yêu như thế cũng chỉ là sự trao đổi cảm xúc. Một tình yêu đích thực phải chứa đựng tình thương, phải có thái độ muốn hiến tặng và chia sớt để nâng đỡ cuộc đời của nhau. Có thể ta đã từng lầm tưởng tình yêu là cung bậc cao hơn tình thương. Sự thật, tình yêu chỉ mạnh hơn tình thương về mặt cảm xúc thỏa mãn, nhưng tình thương lại lớn hơn tình yêu về mặt thấu hiểu và cảm thông. Tức là tình yêu nghiêng về phía hưởng thụ, còn tình thương lại nghiêng về phía trách nhiệm. Trong liên hệ tình cảm lứa đôi, nếu tình yêu lấn át đi tình thương thì tình cảm ấy cũng giống như lửa rơm - bạo phát bạo tàn; còn nếu tình thương lấn át được tình yêu thì tình cảm ấy sẽ như lửa than - mãi âm ỉ cháy. Dù khởi điểm là vì tiếng sét ái tình, nhưng nếu ta biết nhận diện và buông bỏ bớt những đòi hỏi không cần thiết, hết lòng quan tâm đến cuộc đời của người mình thương, thấu hiểu những khó khăn hay ước vọng của họ mà tận tình giúp đỡ, thì ta sẽ có được tình yêu chân thật.

Yêu không đúng cách

Thi sĩ Xuân Diệu đã từng phát hiện ra những lý do thường khiến tình yêu rạn vỡ: "Người ta khổ vì thương không phải cách/ Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người".

Hãy luôn nhớ rằng, mọi hiện tượng trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau mới có thể tồn tại. Tình yêu cũng không ngoại lệ. Sẽ không có cái gì gọi là tình yêu nếu nó tách biệt với những yếu tố khác như sự bình an, vững chãi, bao dung, cởi mở, lắng nghe... Thậm chí nếu không có gia đình, bạn bè, xã hội, kinh tế, chính trị, đạo đức và cả thiên nhiên thì tình yêu cũng không có chỗ để tồn tại. Cho nên, nếu ta biết quay về chăm sóc những yếu tố tưởng chừng như đứng ngoài tình yêu thì cũng chính là chăm sóc tình yêu.

Vậy mà khi yêu ta thường chỉ để ý tới sự ham thích nhau, suốt ngày cứ quấn chặt vào nhau không dám rời nửa bước. Đến khi một bên không thể đáp ứng sự thỏa mãn, thì sự nhàm chán và phản bội nhau là điều tất yếu sẽ xảy ra. Khi ấy, bên ở lại sẽ dễ dàng ngã quỵ vì họ thấy không còn gì để sống. Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã từng than thở: 
"Người đi một nửa hồn tôi chết/ Một nửa hồn kia bỗng dại khờ". Thật ra, ta chẳng bao giờ trao nửa linh hồn cho ai đâu. Chỉ vì một nửa (hay cả) đời sống của ta đã lỡ phụ thuộc vào cảm xúc của đối phương, nên khi họ đi rồi ta không còn chỗ bám. Cơn nghiện đang hành hạ ta đó thôi.

Lắm lúc ta cũng rất thực dụng, đến với tình yêu theo kiểu tranh hơn tranh thua như trong chiến trường kinh tế. Hễ đòi hỏi được là đòi hỏi. Ta xem người ấy như sự bảo an vững chắc cho cuộc đời mình. Thành ra, cụm từ "đi tìm bến trong" bây giờ có nghĩa là tìm một nơi có thể bảo đảm cho mình một cuộc sống sung túc, không thua sút bạn bè. Quan điểm này cũng bị ảnh hưởng sâu sắc từ tâm thức xã hội. Nhìn kỹ, ta sẽ thấy những đòi hỏi kia chỉ mang tới những cảm xúc tạm bợ qua sự tán thưởng của những người sống bằng hình thức, nhưng nó lại là thứ mộng tưởng điên đảo làm phương hại đến tình yêu. Vậy mà ta vẫn tin chắc rằng nếu có tất cả những thứ đó thì đời sống lứa đôi sẽ hạnh phúc hơn. Vì thế sự ham thích của ta không dừng, còn năng lực của người ấy lại bị ta vắt đến cạn kiệt, nên hai tâm hồn ngày càng cách xa nhau. Nếu người ấy vì đam mê mà vẫn cố gắng chiều chuộng ta thì chính họ cũng đang sống trong cơn mộng tưởng. Cả hai đều không cắm rễ vào nền tảng của tình yêu chân thật thì đừng
hỏi tại sao chỉ vì bất đồng quan điểm với nhau, lỡ gây tổn thương nhau, thậm chí không tiếp tục làm thỏa mãn nhau là đôi bên dễ dàng bỏ nhau.

Cũng có lần thi sĩ Xuân Diệu tự thú nhận:
"Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì". Tình yêu cũng như một loại cây xanh, nếu ta không biết cách chăm sóc dưỡng nuôi, hoặc thừa hoặc thiếu, thì nó sẽ héo tàn và lụn bại. Cảm xúc thỏa mãn ai mà không thích. Nhưng sự thỏa mãn ấy phải đi liền với trách nhiệm thì ta mới có thể giữ gìn mãi được. Mà nếu ranh giới cái tôi thật sự được tháo tung để nhường chỗ cho người ấy, thì trách nhiệm dìu dắt nhau đi về hướng thảnh thơi và hạnh phúc chân thật không phải là gánh nặng hay là sự miễn cưỡng nữa. Vấn đề là ta có khả năng nới rộng trái tim của mình ra không? Nếu ta còn quá coi trọng vật chất, vướng kẹt danh vọng, đam mê hình thức hấp dẫn, mà lại muốn có một tình yêu bền vững thì đó chỉ là tham vọng. Ta còn quá yêu bản thân mình thì làm sao ta có thể yêu thêm người khác. Dù có yêu người khác thì cũng chỉ để phục vụ cho bản thân mình mà thôi. Còn lỡ như đối tượng ấy xem tất cả những phương tiện kia là lý do chính để tình yêu
có mặt, thì ta biết rằng đó chẳng phải là một nửa đáng tìm. Tuy nhiên, nếu ta đủ giỏi và bản lĩnh thì vẫn có thể dẫn dắt mọi đối tượng đi về hướng mình chọn mà không sợ
"Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm
người".

Tình yêu có thật hay không là tùy thuộc vào sức mạnh và dung lượng trái tim của mỗi người. Bí quyết là ta phải luôn tỉnh táo để nhận ra mình và hiểu được người mình thương.

Yêu như yêu lần đầu
Xin nâng đỡ đời nhau
Bằng con tim hiểu biết
Lo sợ gì thương đau.

Tình yêu thương rộng lớn
Luôn đem tới niềm vui
Cùng sớt chia nỗi khổ
Dìu nhau về thảnh thơi.


Minh Niệm

Một lý thuyết đạo đức thỏa đáng sẽ như thế nào?

Một lý thuyết đạo đức thỏa đáng sẽ như thế nào?

Có người cho rằng Đạo đức không thể tiến bộ được, vì mọi điều trong đạo đức đã được nói đến. . . .  Nhưng tôi thì tin điều ngược lại. . . .

So với các khoa học khác, Đạo Đức Phi Tôn Giáo là thứ khoa học non trẻ nhất và kém tiến bộ nhất.



13.1. Đạo đức chân nhận sự giới hạn trong nó

Lịch sử của triết học đạo đức khá phong phú và hấp dẫn. Các học giả đã tiếp cận lãnh vực này từ nhiều quan điểm khác nhau, họ đưa ra những lý thuyết vừa thu hút, vừa loại bỏ những độc giả quan tâm sâu sắc về lĩnh vực này. Tất cả các lý thuyết cổ điển đều chứa đựng những yếu tố hợp lý, điều này hầu như không gây ngạc nhiên, bởi vì những triết gia thiên tài nghĩ ra chúng.

Tuy nhiên, nhiều lý thuyết lại mâu thuẫn với nhau, và hầu hết trong số những lý thuyết này dễ bị bác bỏ hoàn toàn. Vì vậy, người ta tự hỏi điều gì là đáng tin Hay trong việc xét vấn đề cách tận căn chân lý là gì? 

Theo lẽ thường, các triết gia khác nhau sẽ trả lời câu hỏi này theo những cách khác nhau. Một số người có thể từ chối đưa ra câu trả lời với lý do là chúng ta không đủ hiểu biết để đưa ra một “phân tích cuối cùng” (a final analysis). Về mặt này, triết học đạo đức không kém hơn nhiều so với bất kỳ môn học nào khác - chúng ta không biết chân lý cuối cùng về hầu hết mọi thứ. Nhưng chúng ta biết rất nhiều, và càng không vội vàng khi nói về một lý thuyết đạo đức thỏa đáng sẽ như thế nào.

Sự giới hạn của khái niệm về con người

Một lý thuyết thỏa đáng theo thuyết duy thực về vị trí của con người trong sơ đồ vĩ đại của vạn vật. “Vụ nổ lớn” (The big bang) xảy ra khoảng 13,8 tỷ năm trước và trái đất được hình thành cách đây khoảng 4,5 tỷ năm. Sự sống trên trái đất tiến hóa cách chậm chạp, chủ yếu theo nguyên tắc chọn lọc tự nhiên. Khi loài khủng long tuyệt chủng vào khoảng 65 triệu năm trước, điều này đã nhường chỗ cho sự tiến hóa của những loài động vật có vú, và vài trăm nghìn năm trước, cũng dòng tiến hóa đó đã tạo ra chúng ta. Trong thời kỳ địa chất, chúng ta chỉ vừa đến ngày hôm qua. 

Nhưng ngay khi tổ tiên của chúng ta xuất hiện, họ bắt đầu coi mình là đỉnh cao của sự sáng tạo. Một số người trong số họ thậm chí còn tưởng tượng rằng toàn bộ vũ trụ đã được tạo ra vì lợi ích của họ.

Do đó, khi họ bắt đầu phát triển các lý thuyết về đúng và sai, họ cho rằng việc bảo vệ những quan điểm của chính họ có giá trị cốt yếu và khách quan. Họ lập luận rằng phần còn lại của sự sáng tạo là dành cho họ sử dụng. Nhưng bây giờ chúng ta biết rõ hơn. Bây giờ chúng ta biết rằng chúng ta tồn tại một cách tình cờ trong quá trình tiến hóa, với tư cách là một loài trong số hàng triệu loài, như là một chấm nhỏ của một vũ trụ rộng lớn không thể tưởng tượng được. Các chi tiết của bức tranh này được sửa đổi hàng năm, khi nhiều thứ được khám phá ra, nhưng những nét chính thì đã được thiết lập rõ ràng. Một số câu chuyện cũ vẫn còn được lưu truyền rằng: con người vẫn là loài động vật thông minh nhất mà chúng ta biết và là loài duy nhất sử dụng ngôn ngữ. Tuy nhiên, Tuy nhiên, những sự thật đó không thể biện minh toàn bộ thế giới quan mà ở đó chúng ta là trung tâm.

Cách thức lý trí làm nảy sinh đạo đức

Con người đã tiến hóa thành những sinh vật có lý trí. Bởi vì chúng ta có lý trí, nên chúng ta có thể lấy một số sự kiện làm lý do để hành xử theo cách này chứ không phải cách khác. Chúng ta có thể kết nỗi những lý do này lại và suy tư về chúng. Do đó, nếu một hành động giúp thỏa mãn những mong muốn, nhu cầu của chúng ta, v.v.—tóm lại, nếu nó thúc đẩy lợi ích của chúng ta —thì chúng ta lấy đó làm lý do để hành động.

Nguồn gốc của khái niệm “nên” (ought) có thể được tìm thấy trong những sự kiện này. Nếu chúng ta không có khả năng cân nhắc các luận chứng, thì chúng ta sẽ không thể sử dụng một khái niệm như vậy. Giống như các loài động vật khác, chúng ta sẽ hành động theo bản năng, thói quen hoặc ham muốn nhất thời. Nhưng việc cân nhắc các luận chứng lại mở ra một yếu tố mới. Giờ đây, chúng ta thấy mình bị thúc đẩy hành động theo những cách thức nhất định do đã cân nhắc kỹ -  do đã suy nghĩ về hành vi của mình và kết quả của nó. Chúng ta sử dụng từ “nên” để đánh dấu yếu tố mới của tình huống này: Chúng ta nên làm điều mà dường như ta có lý do chính đánh nhất để hành động.

Một khi chúng ta coi đạo đức là vấn đề hành động dựa trên lý trí, thì một điểm quan trọng khác sẽ nảy sinh. Khi lập luận về việc phải làm, chúng ta có thể nhất quán hoặc không. Một cách bất nhất là chấp nhận một sự thật như một lý do trong một trường hợp này nhưng lại bác bỏ nó như một lý do trong một trường hợp tương tự. Điều này xảy ra khi một người đặt lợi ích của chủng tộc mình lên trên lợi ích của các chủng tộc khác, bất chấp sự giống nhau của các chủng tộc. Phân biệt chủng tộc là một hành vi phạm tội chống lại đạo đức vì nó là một hành vi phạm tội chống lại lý trí. Những nhận xét tương tự cũng áp dụng cho các học thuyết khác đang phân chia nhân loại thành những người được ủng hộ và không được ủng hộ về mặt đạo đức, chẳng hạn như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa phân biệt giới tính và chủ nghĩa giai cấp. Kết quả cuối cùng là lý trí đòi hỏi sự công bằng: Chúng ta phải thúc đẩy lợi ích của tất cả mọi người như nhau.

Nếu Thuyết Tâm lý Vị kỷ là đúng - nếu chúng ta chỉ quan tâm đến bản thân mình - thì điều này có nghĩa là lý trí đòi hỏi ở chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta có thể chế ngự. Nhưng Thuyết Tâm lý Vị kỷ không đúng; nó vẽ nên một bức tranh sai lầm về bản chất con người và thân phận con người. Chúng ta đã tiến hóa như là những sinh vật xã hội, sống cùng nhau theo nhóm, muốn bầu bạn với nhau, cần sự hợp tác của nhau và quan tâm đến phúc lợi của nhau. Vì vậy, sự “phù hợp” dễ dàng được chấp nhận giữa (a) điều mà lý trí đòi hỏi, cụ thể là không thiên vị; (b) các yêu cầu của cuộc sống xã hội, cụ thể là tuân thủ các quy tắc phục vụ lợi ích của mọi người, nếu được áp dụng một cách công bằng; và (c) khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là quan tâm đến người khác—mặc dù, phải thừa nhận rằng, chúng ta nên quan tâm đến người khác thậm chí là nhiều hơn những gì chúng ta làm. Vì vậy, đạo đức không chỉ là khả dĩ đối với chúng ta; ở mức độ rộng, đó là điều tự nhiên đối với chúng ta.

13.2. Đối xử với mọi người như họ xứng đáng

Ý tưởng chúng ta nên “thúc đẩy lợi ích của mọi người như nhau” thì rất hấp dẫn khi nó được dùng để bác bỏ sự cố chấp. Tuy nhiên, đôi khi có lý do chính đáng để đối xử với mọi người cách khác nhau—đôi khi có người xứng đáng được đối xử tốt hơn hoặc tệ hơn những người khác. Con người là những tác nhân có lý trí có thể đưa ra những lựa chọn tự do. Những người chọn đối xử tốt với người khác thì xứng đáng được đối xử tốt; những người chọn cách đối xử tệ với người khác thì cũng đáng bị như thế.

Điều này nghe có vẻ gay gắt cho đến khi chúng ta xem xét một số ví dụ. Giả sử Smith luôn hào phóng, giúp đỡ bạn bất cứ khi nào cô ấy có thể, và bây giờ cô ấy gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ của bạn. Lúc này bạn có một lý do đặc biệt để giúp đỡ cô ấy, ngoài nghĩa vụ chung là bạn phải giúp ích cho mọi người. Cô ấy không chỉ là một thành viên trong xã hội loài người; cô ấy đã nhận được sự tôn trọng và lòng biết ơn của bạn thông qua hành vi của cô ấy.

Bây giờ hãy xem xét một trường hợp ngược lại. Jones là người hàng xóm của bạn luôn từ chối giúp đỡ. Chẳng hạn, một ngày nào đó, xe ô tô của bạn không khởi động được và anh ấy cũng không chở bạn đi làm—anh ấy không muốn bị làm phiền. Tuy nhiên, một thời gian sau, anh ấy gặp sự cố về chiếc xe của mình và nhờ bạn chở đi. Bây giờ Jones xứng đáng phải tự lo liệu (xoay xở) một mình. Nếu bạn cho anh ta đi nhờ bất chấp hành vi trong quá khứ của anh ta, bạn sẽ chọn cách đối xử tốt hơn với anh ta so với những gì anh ta đáng phải nhận.

Đối xử với mọi người theo cách mà họ đã từng đối xử với người khác không chỉ là vấn đề trả ơn bạn bè và giữ mối hận thù với kẻ thù. Đó là vấn đề đối xử với mọi người như những tác nhân có trách nhiệm xứng đáng với những cư xử cụ thể, dựa trên hành vi trong quá khứ của họ. Có một sự khác biệt quan trọng giữa Smith và Jones: một trong số họ đáng được chúng ta biết ơn; người còn lại xứng đáng với sự oán giận của chúng ta. Sẽ như thế nào nếu chúng ta không quan tâm đến những điều như vậy?

Chúng ta có thể sẽ phủ nhận khả năng giành được sự đối xử tốt từ người khác. Đây là điều quan trọng. Bởi vì chúng ta sống trong các cộng đồng, cách thức mỗi người chúng ta sống không chỉ phụ thuộc vào những gì chúng ta làm mà còn phụ thuộc vào những gì người khác làm. Nếu chúng ta muốn thành công, thì chúng ta cần những người khác đối xử tốt với chúng ta. Một hệ thống xã hội trong đó những công trạng được thừa nhận sẽ cho chúng ta cách để làm điều đó; nó cho chúng ta sức mạnh để quyết định số phận của chính mình.

Không có điều này, chúng ta phải làm gì? Chúng ta có thể hình dung ra một hệ thống xã hội trong đó, một người chỉ có thể được đối xử tốt bằng vũ lực, hoặc nhờ may mắn, hoặc nhờ lòng bác ái. Nhưng sự thực hành trong việc thừa nhận những công trạng là khác nhau. Nó không chỉ khuyến khích mọi người đối xử tốt với người khác mà còn giúp họ kiểm soát cách họ sẽ được đối xử. Điều đó nói rằng: “Nếu bạn cư xử tốt, bạn sẽ được người khác đối xử tốt. Bạn sẽ có được nó. Việc thừa nhận các công trạng cuối cùng là đối xử với người khác với lòng tôn trọng.

13.3. Một chuỗi các động cơ khác nhau

Có những cách khác nhau mà ý tưởng “thúc đẩy lợi ích của mọi người như nhau” hình như không nắm bắt được toàn bộ đời sống đạo đức. 

(Tôi nói “hình như” vì sau này tôi sẽ xem lại liệu nó có thực sự như vậy không). Chắc chắn, đôi khi mọi người nên được thúc đẩy bằng quan tâm người khác một cách không thiên vị. Nhưng cũng có những động cơ đáng tán dương về mặt đạo đức:

Một người mẹ yêu thương và chăm sóc con cái của mình. Bà không muốn “thúc đẩy lợi ích của chúng” chỉ vì chúng là những đứa con mà bà có thể giúp đỡ. Thái độ của bà ấy dành cho chúng hoàn toàn khác với thái độ của bà đối với những đứa trẻ khác.

• Một anh thanh niên trung thành với bạn bè của mình. Thêm nữa, anh ấy không chỉ quan tâm đến lợi ích của họ như một mối quan tâm của mình dành cho mọi người nói chung. Họ là bạn của anh ấy, vì vậy họ đặc biệt đối với  anh ấy.

Chỉ có kẻ ngốc triết học mới muốn loại bỏ tình yêu, lòng trung thành và những thứ tương tự ra khỏi sự hiểu biết của chúng ta về đời sống đạo đức. Nếu những động cơ như vậy bị loại bỏ, và thay vào đó mọi người chỉ tính toán xem những gì là tốt nhất, thì tất cả chúng ta sẽ trở nên tồi tệ hơn nhiều. Dù sao đi chăng nữa, ai lại muốn sống trong một thế giới không có tình yêu và tình bạn? Dĩ nhiên, mọi người có thể có nhiều động cơ giá trị khác:

• Trên hết, một nhà soạn nhạc quan tâm đến việc hoàn thành bản giao hưởng của mình. Cô ấy theo đuổi điều này mặc dù cô ấy có thể làm “tốt hơn” bằng cách làm một việc khác.

• Một giáo viên dành nhiều nỗ lực để chuẩn bị cho lớp học của mình, mặc dù anh ấy có thể làm được nhiều điều tốt hơn bằng cách tập trung vào những việc khác.

Chừng nào những động cơ này thường không được xem là “đạo đức”, thì chúng ta không nên loại bỏ chúng khỏi đời sống con người. Việc tự hào với công việc của mình, muốn tạo ra thứ gì đó có giá trị và có những mục đích cao cả khác thì điều đó vừa góp phần mang lại hạnh phúc cá nhân vừa mang lại phúc lợi chung. Chúng ta không nên loại bỏ chúng cũng giống như không nên loại bỏ tình yêu và tình bạn.

13.4. Chủ nghĩa duy lợi đa chiến lược

Ở trên, tôi đã cố gắng biện minh cho nguyên tắc “chúng ta phải hành động sao cho thúc đẩy lợi ích của tất cả mọi người như nhau.” Nhưng sau đó tôi lưu ý rằng đây không thể nào là toàn bộ câu chuyện về nghĩa vụ đạo đức của chúng ta bởi vì, đôi khi, chúng ta nên đối xử với người khác nhau theo những cách khác nhau, tùy theo công trạng của họ. Và sau đó, tôi cũng có nói đến một số động cơ quan trọng về mặt đạo đức mà dường như chúng không liên quan đến việc thúc đẩy lợi ích một cách không thiên vị. Tuy nhiên, những mối quan tâm này có thể được liên kết với nhau. Thoạt nhìn, có vẻ như việc đối xử với mọi người theo công trạng của họ hoàn toàn khác với việc tìm cách thúc đẩy lợi ích của tất cả mọi người như nhau.

Nhưng khi chúng ta hỏi tại sao công trạng lại quan trọng, câu trả lời là tất cả chúng ta sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu xem công trạng không phải là một phần trong kế hoạch xã hội của chúng ta. Và khi chúng ta hỏi tại sao tình yêu, tình bạn, sự sáng tạo nghệ thuật và niềm tự hào về sự nghiệp của một người lại quan trọng, thì câu trả lời là cuộc sống của chúng ta sẽ nghèo nàn hơn rất nhiều nếu không có chúng. Điều này cho thấy rằng có một tiêu chuẩn chung trong cách đánh giá của chúng ta.

Khi đó, có lẽ tiêu chuẩn đạo đức cơ bản chính là phúc lợi của con người. Điều quan trọng là mọi người được hạnh phúc nhất có thể. Tiêu chuẩn này có thể được sử dụng để đánh giá nhiều thứ, bao gồm các hành động, chính sách, phong tục xã hội, luật pháp, quy tắc, động cơ và đặc điểm tính cách. Nhưng điều này không có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng nên nghĩ đến việc làm cho mọi người hạnh phúc nhất có thể. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn nếu thay vào đó ta chỉ đơn thuần yêu thương con cái, vui vẻ với bạn bè, tự hào về công việc của mình, giữ lời hứa, v.v. Một nền đạo đức coi trọng “lợi ích ngang nhau” sẽ ủng hộ kết luận này.

Đây là không phải là một ý tưởng mới. Một nhà duy lợi nổi tiếng, Henry Sidgwick (1838–1900) cũng đưa ra quan điểm tương tự:

Học thuyết cho rằng Hạnh phúc phổ quát là tiêu chuẩn tối thượng không được hiểu theo nghĩa ngụ ý rằng lòng nhân từ phổ quát là động cơ hành động đúng đắn duy nhất hoặc luôn luôn tốt nhất. . . không nhất thiết việc đưa ra tiêu chuẩn về sự đúng đắn phải luôn là mục tiêu mà chúng ta phải hướng tới: kinh nghiệm cho thấy rằng hạnh phúc phổ quát sẽ đạt được một cách thỏa đáng hơn nếu con người thường xuyên hành động bằng những động cơ khác nữa, thay vì chỉ bằng lòng bác ái phổ quát thuần túy, hiển nhiên là những động cơ này được ưu tiên hơn theo các nguyên tắc của chủ nghĩa duy lợi.

Đoạn văn này đã được trích dẫn nhằm ủng hộ quan điểm “Chủ nghĩa duy lợi có động cơ”. Theo quan điểm đó, chúng ta nên hành động từ những động cơ thúc đẩy tốt nhất cho phúc lợi chung.

Tuy nhiên, quan điểm hợp lý nhất của loại này không chỉ tập trung vào động cơ; nó cũng không tập trung hoàn toàn vào các hành vi hay quy tắc, như các lý thuyết khác đã làm. Lý thuyết hợp lý nhất có thể được gọi là Chủ nghĩa duy lợi đa chiến lược. Lý thuyết này mang tính vị lợi, vì mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa phúc lợi chung. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng chúng ta có thể sử dụng các chiến lược khác nhau để theo đuổi mục tiêu đó. Đôi khi chúng ta có thể nhắm thẳng vào nó. Chẳng hạn, một thượng nghị sĩ có thể ủng hộ một dự luật vì bà ấy tin rằng nó sẽ nâng cao mức sống cho mọi người, hoặc một cá nhân có thể gửi tiền cho Hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế vì anh ta tin rằng điều này sẽ mang lại nhiều điều tốt hơn những việc khác mà anh có thể làm. Nhưng thông thường chúng ta không lưu tâm đến phúc lợi chung; mà thay vào đó, chúng ta chỉ đơn thuần quan tâm đến con cái, lo làm việc, tuân thủ luật pháp, giữ lời hứa, v.v.

Hành Động Đúng là Sống Theo Kế Hoạch Tốt Nhất.

Chúng ta có thể làm cho ý tưởng đằng sau của thuyết duy lợi đa chiến lược được cụ thể hơn một chút. Giả sử chúng ta có một danh sách cụ thể mọi đức tính, động cơ và những phương pháp đưa ra quyết định giúp cho một người được hạnh phúc và đóng góp cho phúc lợi của người khác. Thêm nữa, giả sử danh sách này là tối ưu nhất cho người đó; không còn có sự kết hợp nào khác giữa các đức tính, động cơ và phương pháp ra quyết định để có thể thực hiện công việc tốt hơn được nữa ... Một danh sách như vậy sẽ bao gồm ít nhất những điều sau đây:

• Những đức tính cần thiết làm cho cuộc sống của một người được tốt đẹp hơn.

• Những động cơ để hành động

• Những cam kết sẽ có với bạn bè, gia đình và những người khác.

• Các vai trò xã hội mà một người sẽ đảm nhận, cùng với các trách nhiệm và yêu cầu kèm theo.

• Những bổn phận và mối quan tâm liên quan đến các dự án mà một người sẽ đảm nhận, chẳng hạn như trở thành một DJ, một người lính hoặc một người giúp việc.

• Các quy tắc hàng ngày mà một người bình thường sẽ tuân theo mà không cần suy nghĩ.

• Một chiến lược hoặc một nhóm các chiến lược về thời điểm xem xét đưa ra các ngoại lệ đối với các quy tắc và cơ sở để đưa ra các ngoại lệ đó.

Danh sách này cũng sẽ xác định mối quan hệ giữa các mục khác nhau trong danh sách— cái gì được ưu tiên hơn cái gì, cách phân xử những cuộc xung đột, v.v. Có vẻ rất khó để xây dựng một danh sách như vậy. Xét về mặt thực hành, thậm chí nó có thể là không khả thi. Nhưng chúng ta có thể tin chắc rằng nó sẽ bao gồm sự ủng hộ của tình bạn, sự trung thực và những đức tính quen thuộc khác. Nó sẽ khuyên chúng ta giữ lời hứa của mìnhvà tránh làm hại người khác, mặc dù không phải lúc nào cũng vậy, v.v. Và nó có thể nhắc chúng ta ngừng sống xa hoa trong khi hàng triệu trẻ em chết vì những căn bệnh có thể phòng ngừa được.

Dù sao đi nữa, có một sự kết hợp nào đó giữa các đức tính, động cơ và phương pháp đưa ra quyết định điều nào là tốt nhất cho tôi, với hoàn cảnh, tính cách và tài năng của tôi—“tốt nhất” theo nghĩa là nó sẽ tối ưu hóa cơ hội của tôi để có được một cuộc sống tốt đẹp, đồng thời tối ưu hóa cơ hội để những người khác cũng có cuộc sống tốt đẹp. Tôi gọi sự kết hợp tối ưu này là bản kế hoạch tốt nhất của tôi. Điều đúng đắn đối với tôi là hành động theo bản kế hoạch tốt nhất mà tôi có.

Kế hoạch tốt nhất của tôi có thể có nhiều điểm chung với kế hoạch của bạn. Có lẽ, cả hai sẽ bao gồm các quy tắc như không nói dối, trộm cắp và giết người, cùng với sự hiểu biết về thời điểm đưa ra ngoại lệ đối với các quy tắc đó. Chúng sẽ bao gồm các đức tính như kiên nhẫn, tử tế và tự chủ. Cả hai đều có thể chứa các hướng dẫn nuôi dạy con cái, bao gồm cả tiêu chuẩn về các đức tính cần nuôi dưỡng ở chúng.

Nhưng kế hoạch tốt nhất của chúng tôi không nhất thiết phải giống hệt nhau. Mỗi người có tính cách và tài năng khác nhau. Một người có thể tìm thấy sự thỏa mãn với tư cách là một giáo sĩ Do Thái trong khi người khác không bao giờ có thể sống như vậy. Do đó, cuộc sống của chúng ta có thể bao gồm nhiều mối tương giao cá nhân khác nhau, và chúng ta cũng cần trau dồi nhiều đức tính khác nhau. Mọi người cũng sống trong những hoàn cảnh khác nhau và có quyền tiếp cận các nguồn lực khác nhau—một số người giàu có; một số người nghèo; số khác được đặc ân; số khác nữa bị bách hại. Vì vậy, các chiến lược tối ưu cho cuộc sống sẽ khác nhau.

Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, việc xác định xem một kế hoạch là tốt nhất sẽ là việc đánh giá mức độ mà nó thúc đẩy lợi ích của tất cả mọi người như nhau. Vì vậy, lý thuyết tổng thể là thuyết duy lợi, mặc dù nó có thể thường xác nhận những động cơ nghe có vẻ không vị lợi chút nào.

13.5. Cộng đồng đạo đức

Với tư cách là những tác nhân đạo đức, chúng ta nên quan tâm đến tất cả những người mà chúng ta có thể gây ảnh hưởng đến phúc lợi của họ. Điều này có vẻ như là một lời đạo đức tầm thường, nhưng trên thực tế, nó có thể là một học thuyết khó. Trên thế giới, nhiều trẻ em không được tiêm những loại vắc-xin thiết yếu, điều này dẫn đến hàng trăm nghìn ca tử vong đáng tiếc hằng năm. Công dân ở các quốc gia giàu có hơn có thể dễ dàng cắt giảm một nửa con số này, nhưng họ không làm như vậy. Mọi người sẽ không ngần ngại làm điều này nếu trẻ em trong khu phố của họ gặp trường hợp tương tự, nhưng vị trí của trẻ em vốn không phải là vấn đề: mà là mọi người đều sống trong(ở trong) cộng đồng quan tâm đến đạo đức. Nếu chúng ta quan tâm đến tất cả trẻ em, thì chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ của mình.

Nếu cộng đồng đạo đức không bị giới hạn đối với một số người ở trong một địa điểm nào đó, thì nó cũng không bị giới hạn đối với mọi người ở bất kỳ thời điểm nào. Việc mọi người sẽ bị ảnh hưởng bởi hành động của mình lúc này hay trong tương lai đều không quan trọng. Nghĩa vụ của chúng ta là xem xét lợi ích của mọi người như nhau. Một hậu quả của điều này liên quan đến vũ khí hạt nhân. Những vũ khí như vậy không chỉ có khả năng gây thương tích và giết chết những người vô tội mà còn có thể đầu độc môi trường trong hàng nghìn năm. Nếu phúc lợi của các thế hệ tương lai được coi trọng đúng mức, thì thật khó để tưởng tượng ra một viễn cảnh mà những vũ khí như vậy được sử dụng. Biến đổi khí hậu là một vấn đề khác ảnh hưởng đến lợi ích của con cháu chúng ta. Nếu chúng ta thất bại trong việc đảo ngược tác động của sự nóng lên toàn cầu, con cái chúng ta sẽ phải chịu đựng nhiều hơn chúng ta.

Còn một cách khác nữa mà quan niệm của chúng ta về cộng đồng đạo đức phải được mở rộng. Đó là con người không đơn độc trên hành tinh này. Các loài động vật có tri giác khác—tức là các loài động vật có khả năng cảm nhận niềm vui và nỗi đau—cũng có sở thích. Khi chúng ta lạm dụng hoặc giết chúng, chúng sẽ bị tổn hại, giống như những hành động như vậy có thể gây hại cho con người. Do đó, chúng ta phải cân nhắc lợi ích của động vật phi nhân loại trong những suy tính của chúng ta. Như Jeremy Bentham (1748–1832) đã chỉ ra, việc loại trừ các sinh vật khỏi việc suy xét về mặt đạo đức bởi vì giống loài của chúng thì không chính đáng hơn việc loại trừ chúng vì chủng tộc, quốc tịch hoặc mức thu nhập của chúng. Tiêu chuẩn đạo đức duy nhất không phải là phúc lợi của con người, mà là phúc lợi cho tất cả.

13.6. Công bình và Công bằng

Chủ nghĩa duy lợi đã bị chỉ trích là bất công và không chính đáng. Các biến thể mà chúng ta đã giới thiệu có thể trợ giúp không? Một lời phê bình liên quan đến hình phạt. Chúng ta có thể tưởng tượng những trường hợp thúc đẩy phúc lợi chung để đổ tội cho một người vô tội. Một hành động như vậy sẽ là bất công trắng trợn, nhưng chủ nghĩa duy lợi dường như đòi hỏi điều đó. Khái quát hơn, Kant đã chỉ ra, những người theo chủ nghĩa duy lợi rất vui khi “sử dụng” tội phạm để đạt được các mục tiêu của xã hội. Ngay cả khi những mục tiêu đó đáng giá—chẳng hạn như giảm tội phạm—chúng ta có thể không thoải mái với một lý thuyết ủng hộ sự thao túng như một chiến lược đạo đức hợp pháp.

Tuy nhiên, lý thuyết của chúng ta có một quan điểm về trừng phạt khác với quan điểm của hầu hết những người theo chủ nghĩa duy lợi. Trên thực tế, quan điểm của chúng ta gần với quan điểm của Kant hơn. Khi trừng phạt ai đó, chúng ta đang đối xử tệ hơn với anh ta so với những người khác. Nhưng điều này được biện minh bởi những việc làm trong quá khứ của chính người đó: Đó chính là điều đáp trả đối với những gì anh ta đã làm. Đó là lý do tại sao việc đổ lỗi cho một người vô tội là không đúng; người vô tội đã không làm gì để đáng bị đối xử như vậy. Tuy nhiên, lý thuyết về hình phạt chỉ là một khía cạnh của công lý.

Các câu hỏi về công bình nảy sinh bất cứ khi nào ai đó được đối xử tốt hơn hoặc tệ hơn người khác. Giả sử người sử dụng lao động phải chọn ai trong số hai nhân viên để thăng chức. Ứng viên đầu tiên đã làm việc chăm chỉ, nhận thêm công việc, từ bỏ thời gian nghỉ phép, v.v. Mặt khác, ứng cử viên thứ hai chưa bao giờ làm nhiều hơn những gì anh ta phải làm. Thật rõ ràng là hai nhân viên sẽ được đối xử rất khác nhau: một người sẽ được thăng chức; người kia sẽ không được. Theo thuyết của chúng ta thì những điều này vẫn ổn. Nhân viên đầu tiên đã được thăng chức; người thứ hai thì không.

Thông thường, mọi người nghĩ rằng việc các cá nhân được khen thưởng vì vẻ đẹp hình thể, trí thông minh vượt trội và những phẩm chất khác phần lớn là do có DNA phù hợp và được nuôi dưỡng bởi cha mẹ tốt. Thế giới thực phản ánh điều này: Các cá nhân thường có công việc tốt hơn và nhiều tiền hơn chỉ vì họ được sinh ra với năng khiếu bẩm sinh hoặc trong một gia đình giàu có hơn. Nhưng, ngẫm lại, điều này có vẻ không đúng. Mọi người không xứng đáng với tài sản từ cha mẹ của họ; họ có chúng chỉ là kết quả của cái mà John Rawls (1921–2002) gọi là “xổ số tự nhiên”. Giả sử nhân viên đầu tiên trong ví dụ của chúng ta không được thăng chức, mặc dù cô ấy đã làm việc chăm chỉ, bởi vì nhân viên thứ hai có một số khả năng tự nhiên hữu ích hơn ở vị trí mới. Ngay cả khi người sử dụng lao động có thể biện minh cho quyết định này dựa trên nhu cầu của công ty, nhân viên đầu tiên sẽ cảm thấy bị lừa dối. Cô ấy đã làm việc chăm chỉ hơn, nhưng anh ấy lại được thăng chức và những lợi ích đi kèm với nó nhờ thứ mà anh ấy không phải làm gì để kiếm được. Đó không phải là công bằng. Trong một xã hội công bằng, mọi người có thể cải thiện hoàn cảnh của mình thông qua làm việc chăm chỉ, nhưng họ sẽ không được hưởng lợi từ việc sinh ra đã may mắn.

13.7. Kết luận

Một lý thuyết đạo đức thỏa đáng sẽ như thế nào? Tôi đã chỉ ra những khả thể mà tôi cho là hợp lý nhất: Theo Chủ nghĩa duy lợi Đa chiến lược, chúng ta nên tối đa hóa lợi ích của tất cả vạn vật bằng cách sống theo kế hoạch tốt nhất của mình. Tuy nhiên, người ta cần phải khiêm tốn khi đưa ra một đề xuất như vậy. Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà đạo đức học đã trình bày rõ ràng và bảo vệ nhiều lý thuyết khác nhau, và lịch sử luôn tìm thấy những sai sót trong quan điểm của họ. Tuy nhiên, vẫn còn hy vọng, nếu không phải là đề xuất của tôi, thì sẽ là một số đề xuất khác trong tương lai. Nền văn minh chỉ vài nghìn năm tuổi. Nếu chúng ta không giết chết nó, thì việc nghiên cứu triết học đạo đức có một tương lai tươi sáng.

James Rachels

Đạo Đức Nhân Đức

 Đạo Đức Nhân Đức

“Con người tuyệt hảo hệ ở nhân đức” trích trong sách, POOR RICHARD’S ALMANACK (1736) của Benjamin Franklin.



12.1. Đạo đức Nhân Đức và Đạo đức Hành động đúng đắn

Khi suy nghĩ về bất kỳ chủ đề nào đó, điều quan trọng là những câu hỏi nào chúng ta sẽ bắt đầu. Trong Đạo đức học Nicomachean của Aristotle (khoảng năm 325 trước Công nguyên), các câu hỏi trọng tâm là về tính cách. Aristotle bắt đầu bằng câu hỏi: điều tốt đẹp của con người là gì?” và câu trả lời của ông là “một hoạt động của tâm hồn phù hợp với nhân đức.” Sau đó, ông thảo luận về những nhân đức như lòng can đảm, tự chủ, quảng đại và trung thực. Hầu hết các nhà tư tưởng cổ đại tìm đến đạo đức bằng cách đặt câu hỏi: những nét tính cách nào khiến một người trở thành một người tốt? Kết quả là “các nhân đức” chiếm vị trí trung tâm trong các cuộc thảo luận của họ.

 Tuy nhiên, khi thời gian trôi qua, lối suy nghĩ này đã bị lãng quên. Với sự xuất hiện của đạo Ki-tô giáo, một loạt ý tưởng mới đã xuất hiện. Các tín hữu Ki-tô giáo, cũng giống như người Do Thái, đã xem Thiên Chúa như là Đấng ban phát lề luật, vì vậy họ coi việc giữ luật đó như là chìa khóa để sống công chính. Đối với người Hy Lạp, đời sống đức hạnh không thể tách rời khỏi đời sống lý trí. Nhưng thánh Augustine, nhà tư tưởng Ki-tô giáo có ảnh hưởng ở thế kỷ thứ tư, không tin vào lý trí và tin rằng lòng tốt mang tính luân lý phụ thuộc vào việc phục tùng Thánh ý Thiên Chúa. Do đó, khi các triết gia thời trung cổ thảo luận về các nhân đức, thì thảo luận đó nằm trong bối cảnh Luật thánh, và “các nhân đức đối thần” (theological virtues) là đức tin, đức cậy và đức mến và đức vâng lời thì chiếm vị trí nổi bật.

 Sau thời kỳ Phục hưng (1400–1650), triết học đạo đức lại trở nên thế tục hơn, nhưng các triết gia không quay trở lại lối suy nghĩ của người Hy Lạp. Thay vào đó, Luật thánh được thay thế bằng một thứ gọi là “Luật luân lý” (Moral Law). Luật luân lý, được cho là bắt nguồn từ lý trí của con người hơn là từ Thiên Chúa, đó là một hệ thống các quy tắc xác định hành động nào là đúng. Như đã đề cập, nhiệm vụ của chúng ta là phải tuân thủ những quy tắc đó. Do đó, các nhà triết học đạo đức hiện đại đã tiếp cận chủ đề đó bằng cách đặt một câu hỏi về cơ bản thì khác với câu hỏi của triết gia thời cổ đại. Thay vì hỏi những nét tính cách nào khiến ai đó trở thành người tốt? thì họ hỏi điều đúng đắn phải làm là gì? Điều này dẫn họ theo một hướng khác. Họ tiếp tục phát triển các lý thuyết, không phải về đạo đức, nhưng về sự công chính và nghĩa vụ:

 • Thuyết vị kỷ đạo đức: Mỗi người phải thực hiện bất cứ điều gì có thể thúc đẩy lợi ích của mình một cách tốt nhất.

• Lý thuyết khế ước xã hội: Điều đúng đắn cần làm là tuân theo các quy tắc mà những người có lý trí, tư lợi sẽ đồng ý tuân theo vì lợi ích chung của họ.

• Thuyết vị lợi: Người ta phải làm bất cứ điều gì để dẫn đến hạnh phúc nhất.

• Lý thuyết của Kant: Nhiệm vụ của chúng ta là tuân theo những quy tắc mà chúng ta có thể chấp nhận như những quy luật phổ quát - tức là những quy tắc mà chúng ta sẵn sàng cho mọi người tuân theo trong mọi hoàn cảnh.

Và đây là những lý thuyết đã thống trị triết học đạo đức từ thế kỷ XVII trở đi.

Chúng ta có nên quay trở lại đạo đức nhân đức? Tuy nhiên, một số triết gia gần đây đã đưa ra một ý tưởng cấp tiến. Họ nói rằng triết học đạo đức đã bị sụp đổ, và chúng ta nên quay trở lại lối suy nghĩ của Aristotle.

Điều này đã được đề xuất bởi Elizabeth Anscombe trong bài viết “Triết học đạo đức hiện đại” (1958). Anscombe tin rằng triết học đạo đức hiện đại đã sai đường lạc hướng vì nó dựa trên khái niệm không mạch lạc về “luật” mà không có người ban hành luật. Bà nói, chính những khái niệm về nghĩa vụ, bổn phận và công chính không thể tách rời khỏi khái niệm tự mâu thuẫn. Do đó, chúng ta nên ngừng suy nghĩ về nghĩa vụ, bổn phận và công chính, và quay lại cách tiếp cận của Aristotle. Các nhân đức một lần nữa cần chiếm vị trí trung tâm.

Sau bài báo của Anscombe, một loạt sách và tiểu luận xuất hiện thảo luận về các nhân đức, và Đạo đức Nhân đức nhanh chóng trở thành một lựa chọn ưu tiên một lần nữa. Trong phần tiếp theo, trước tiên chúng ta sẽ xem xét Đạo đức Nhân đức là như thế nào. Sau đó, chúng ta sẽ suy xét một số lý do khiến người ta ưa thích lý thuyết này hơn lý thuyết kia, những cách thức hiện đại hơn để tiếp cận chủ đề này. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét liệu việc quay trở lại Đạo đức Nhân đức có đáng mong đợi hay không.

12.2. Các Nhân Đức

Một học thuyết về nhân đức nên có một vài yếu tố sau: một phát biểu để trả lời cho câu hỏi nhân đức là gì, một danh sách các nhân đức, một bản tường trình về những gì mà các đức tính này bao gồm, và một sự giải thích cho việc tại sao những phẩm tính này được xem là tốt. Thêm vào đó, học thuyết cũng nên chỉ ra cho chúng ta biết rằng các nhân đức nơi mỗi người liệu có giống nhau hay là khác nhau giữa người này với người kia hay giữa nền văn hoá này với nền văn hoá kia?

Nhân Đức là gì? Aristotle nói rằng nhân đức là một nét tính cách thể hiện trong hành động theo thói quen. Từ “thói quen” ở đây rất quan trọng. Ví dụ, nhân đức trung thực không thuộc về một người chỉ thỉnh thoảng nói sự thật hoặc chỉ nói sự thật khi điều đó có lợi cho mình. Người trung thực thì thành thật một cách tự nhiên; hành động của họ "bắt nguồn từ một tính cách kiên định và không thể thay đổi."

 Nhưng điều này không có sự phân biệt nhân đức với tật xấu, vì tật xấu cũng có những nét tính cách thể hiện trong hành động theo thói quen. Phần khác của định nghĩa mang tính đánh giá: các nhân đức thì tốt, trong khi các tật xấu thì tệ. Vì vậy, một nhân đức là một đặc điểm đáng ca ngợi của tính cách được thể hiện trong hành động theo thói quen. Tất nhiên, với định nghĩa này sẽ không cho chúng ta biết những nét tính cách nào là tốt hay xấu. Phần sau chúng ta sẽ làm sáng tỏ điều này bằng cách thảo luận về trong những cách thức nào mà một số nhân đức cụ thể được xem là tốt. Còn lúc này, chúng ta có thể lưu ý rằng phẩm chất đạo đức là những phẩm chất sẽ khiến chúng ta tìm kiếm sự bầu bạn của ai đó. Như Edmund L. Pincoffs (1919–1991) đã nói: “Có một vài kiểu người khiến chúng ta thích hơn; và cũng có những người khác làm chúng ta xa tránh. Các thuộc tính trong danh sách [nhân đức và tật xấu] của chúng ta có thể là lý do để ưa thích hoặc tránh né.”

 Chúng ta nhìn mọi người với các mục đích khác nhau và điều này ảnh hưởng đến những nhân đức nào có liên quan. Khi tìm kiếm một thợ sửa xe, chúng ta muốn tìm một người khéo léo, trung thực và tận tâm; khi tìm kiếm một giáo viên, chúng ta muốn tìm một người có kiến thức, ăn nói lưu loát và kiên nhẫn. Như vậy, nhân đức của nghề sửa xe khác với nhân đức của nghề dạy học. Nhưng chúng ta cũng đánh giá con người với tư cách là con người, một cách tổng quát hơn, chúng ta cũng có khái niệm về một người tốt. Các nhân đức luân lý thuộc về những con người như vậy. Vì vậy, chúng ta có thể định nghĩa một nhân đức luân lý là một nét tính cách, được thể hiện trong hành động theo thói quen và sẽ là tốt cho bất kỳ ai có được nó.

Những nhân đức là gì? Con người nên trau dồi những nét tính cách nào? Không thể trả lời một cách ngắn gọn được, nhưng bảng dưới đây là một phần của danh sách:

Quảng đại

Lễ độ

Lòng trắc ẩn

Tính ngay thẳng

Sự hợp tác

Lòng can đảm Không thiên vị

Thân thiện

Khoan dung

Trung thực

Cần cù

Công bằng Kiên nhẫn

Thận trọng

Biết suy nghĩ

Kỷ luật bản thân

Biết tự lực

Tế nhị Phép lịch sự

Đáng tin cậy

Trung thành 

Tiết độ

Chín chắn

Lòng khoan dung

Dĩ nhiên danh sách này có thể được mở rộng

Những đức tính này bao gồm những gì? Cách chung, chúng ta có thể trả lời rằng chúng ta nên có lương tâm, từ bi và khoan dung; nhưng cũng có thể đưa ra câu trả lời chính xác về những đặc nét riêng của mỗi đặc tính là gì. Mỗi nhân đức đều có những đặc điểm nổi bật riêng và đặt ra những vấn đề cụ thể của riêng nó. Hãy xem xét bốn ví dụ sau.

1. Lòng can đảm. Theo Aristotle, các nhân đức là điểm giữa hai thái cực: Một nhân đức là “trung điểm giữa hai tật xấu: một cái thái quá và một cái thiếu hụt”. Lòng can đảm là điểm giữa hai thái cực: sự hèn nhát và bốc đồng - chạy trốn khỏi mọi nguy hiểm là hèn nhát, nhưng liều lĩnh quá mức thành ra bốc đồng.

Lòng can đảm đôi khi được cho là một nhân đức mang tính chiến đấu bởi vì những người lính rõ ràng cần phải có nó. Nhưng những người lính không phải là những người duy nhất cần có lòng can đảm. Tất cả chúng ta đều cần lòng can đảm, và không chỉ khi chúng ta đối mặt với mối nguy hiểm tiềm tàng, chẳng hạn như quân địch hoặc một con gấu xám. Đôi khi chúng ta cần có lòng can đảm để đối diện với những tình huống không mấy dễ chịu. Cần có lòng can đảm để xin lỗi. Nếu một người bạn đang đau buồn, bạn cần có lòng can đảm để trực tiếp hỏi thăm người ấy xem họ ấy thế nào. Cần có lòng can đảm để tình nguyện làm điều gì đó tốt đẹp mà bạn không thực sự muốn làm.

Nếu chúng ta chỉ xem xét những trường hợp thông thường, bản chất của lòng can đảm dường như không có vấn đề gì. Nhưng trong những tình huống bất thường lại gây ra nhiều trường hợp rắc rối hơn. Hãy xem xét trường hợp của 19 tên không tặc đã sát hại gần 3.000 người vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Họ đối mặt với cái chết chắc chắn, rõ ràng là không hề nao núng, nhưng vì một mục đích xấu xa. Họ có lòng can đảm không? Nhà bình luận chính trị người Mỹ Bill Maher đã ngụ ý rằng họ có lòng can đảm - và vì vậy ông phải đóng chương trình của mình, Politically Incorrect. Nhưng Maher có đúng không? Nhà triết học Peter Geach sẽ không nghĩ như vậy. Ông ấy cho rằng: “Lòng can đảm vì một mục đích không xứng đáng thì không phải là một nhân đức; không có sự can đảm trong một nguyên nhân xấu xa. Thật vậy, tôi không muốn gọi việc đối mặt với nguy hiểm một cách phi đạo đức này là 'lòng can đảm'.”

Thật dễ dàng để thấy quan điểm của Geach. Việc gọi một kẻ khủng bố là “can đảm” dường như để khen ngợi màn trình diễn của hắn, và chúng ta không muốn nói lên điều đó. Nhưng mặt khác, nói rằng hắn ta không dũng cảm thì có vẻ không đúng lắm - vì xét cho cùng, hãy nhìn cách hắn ta cư xử khi đối mặt với nguy hiểm. Để giải quyết vấn đề nan giải này, có lẽ chúng ta chỉ nên nói rằng hắn ta thể hiện hai phẩm chất của tính cách, một là sự kiên định đáng ngưỡng mộ khi đối mặt với nguy hiểm) và một là đáng ghê tởm (sẵn sàng giết người vô tội). Hắn ta có lòng can đảm, như Maher gợi ý, và lòng can đảm là một điều tốt; nhưng vì lòng can đảm của hắn ta được sử dụng cho một mục đích xấu xa như vậy, nên hành vi của hắn ta nói chung là cực kỳ xấu xa.

2. Lòng quảng đại. Lòng quảng đại là một thái độ sẵn sàng trao tặng người khác những gì mình có. Một người có thể quảng đại về bất kỳ năng lực nào của mình—ví dụ như thời gian, tiền bạc hoặc kiến thức. Aristotle nói rằng sự quảng đại, giống như lòng dũng cảm, là một điểm giữa hai thái cực: Nó rơi vào giữa keo kiệt và phung phí. Người keo kiệt cho quá ít; kẻ phung phí cho quá nhiều; người quảng đại chỉ cho đúng số lượng. Nhưng số lượng bao nhiêu là vừa phải? Một bậc thầy cổ xưa khác, Đức Giê-su người Nazareth, nói rằng chúng ta phải cho người nghèo tất cả những gì chúng ta có. Chúa Giê-su cho rằng sở hữu của cải trong khi người khác đang chết đói là sai trái. Những người nghe Chúa Giê-su nói, họ thấy sự dạy dỗ của Ngài quá khắt khe, và họ thường khước từ nhũng giáo huấn này. Bản chất con người không thay đổi nhiều trong 2.000 năm qua: ngày nay, rất ít người làm theo lời khuyên của Chúa Giê-su, ngay cả trong số những người tự xưng mình là ngưỡng mộ Ngài.

Về vấn đề này, những người theo chủ nghĩa vị lợi hiện đại là những người hậu duệ đạo đức của Chúa Giê-su. Họ cho rằng trong mọi tình huống, chúng ta có nhiệm vụ làm bất cứ điều gì mang lại lợi ích tổng thể tốt nhất cho người khác. Điều này có nghĩa là chúng ta nên quảng đại trong việc cho đi tiền bạc của mình trong việc giúp đỡ người khác cho đến khi việc cho đi nhiều hơn sẽ gây hại cho chính chúng ta. Nói cách khác, chúng ta nên cho đi cho đến khi chính chúng ta trở thành người nhận xứng đáng nhất số tiền còn lại trong tay. Nếu chúng ta làm điều này, thì chúng ta sẽ trở nên nghèo khó.

Tại sao mọi người chống lại ý tưởng này? Lý do chính có thể là vì tư lợi; chúng ta không muốn trở nên túng quẫn. Nhưng việc cho đi này không chỉ ở tiền bạc; nó còn về thời gian và sức lực. Việc áp dụng một chính sách như vậy sẽ khiến chúng ta không thể sống cuộc sống bình thường. Cuộc sống của chúng ta sẽ phải bao gồm các dự án và các mối quan hệ, đòi hỏi sự đầu tư đáng kể về tiền bạc, thời gian và công sức. Một lý tưởng “rộng lượng” đòi hỏi chúng ta quá nhiều, sẽ buộc chúng ta phải từ bỏ cuộc sống hàng ngày. Chúng ta phải sống như những vị thánh.

Do đó, một cách giải thích hợp lý về sự hào phóng có thể như thế này: Chúng ta nên có lòng quảng đại trong việc sử dụng các nguồn lực của mình nhất bao nhiêu có thể trong khi vẫn tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Nhưng ngay cả cách giải thích này cũng để lại cho chúng ta một vấn đề khó xử. “Cuộc sống bình thường” của một số người khá xa hoa - hãy nghĩ về một người giàu đã quen với những thứ xa xỉ. Chắc chắn một người như vậy không thể sống rộng lượng trừ khi anh ta sẵn sàng bán chiếc du thuyền của mình để nuôi những người đói khổ. Nhân đức rộng lượng dường như không thể tồn tại trong bối cảnh của một cuộc sống quá xa hoa. Vì vậy, để làm cho cách giải thích về sự rộng lượng này trở nên “hợp lý”, quan niệm của chúng ta về cuộc sống bình thường không được quá xa hoa.

3.Trung thực. Người trung thực là người trước hết không nói dối. Nhưng như vậy đã đủ chưa? Nói dối không phải là cách duy nhất để đánh lạc hướng mọi người. Geach kể câu chuyện về thánh Athanasius, người đang chèo thuyền trên sông thì những kẻ bắt bớ người chèo thuyền ngược chiều hỏi người: “Kẻ phản bội Athanasius đâu rồi?'

“Không xa đâu,” vị thánh vui vẻ trả lời, và chèo thuyền qua họ mà họ không nghi ngờ gì.

Geach tán thành sự mưu mẹo của vị thánh, mặc dù ông không tán thành việc vị thánh nói dối trắng trợn. Theo Geach, nói dối luôn bị cấm: một người có đức tính trung thực thậm chí sẽ không bao giờ suy nghĩ đến việc đó. Người trung thực không nói dối; vì vậy, họ phải tìm những cách khác để đạt được mục tiêu của mình. Athanasius đã tìm ra một cách như vậy, ngay cả trong tình trạng khó khăn của mình. Thánh nhân không nói dối những kẻ theo đuổi mình; ngài “chỉ” đánh lừa họ. Nhưng liệu rằng lừa dối có phải là không trung thực không? Tại sao một số cách đánh lừa mọi người lại không trung thực, còn những cách khác thì trung thực? Để trả lời câu hỏi đó, chúng ta hãy nghĩ xem tại sao ngay từ đầu sự trung thực lại là một nhân đức tốt. Tại sao trung thực là tốt? Một phần lý do là vì xét về quy mô lớn: Nền văn minh phụ thuộc vào nó. Khả năng chung sống trong cộng đồng của chúng ta phụ thuộc vào khả năng giao tiếp của chúng ta. Chúng ta nói chuyện với nhau, đọc bài viết của nhau, trao đổi thông tin và ý kiến, bày tỏ mong muốn của mình với nhau, hứa hẹn, hỏi và trả lời câu hỏi, v.v. Nếu không có những loại trao đổi này, cuộc sống xã hội sẽ không làm nên cuộc sống của chính nó. Nhưng mọi người phải trao đổi cách trung thực để chung sống.

Ở quy mô nhỏ hơn, khi chúng ta tin lời người khác, chúng ta khiến mình dễ bị tổn thương trước họ. Bằng cách chấp nhận những gì họ nói và sửa đổi hành vi của mình cho phù hợp, chúng ta đặt phúc lợi của mình vào tay họ. Nếu họ nói đúng sự thật, thì mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng nếu họ nói dối, thì chúng ta sẽ có niềm tin sai lầm; và nếu chúng ta hành động theo những niềm tin đó, thì chúng ta sẽ làm những điều dại dột. Chúng ta tin tưởng họ, và họ đã phản bội lòng tin của chúng ta. Không trung thực là thao túng. Ngược lại, những người trung thực đối xử với người khác bằng lòng tôn trọng.

Nếu những ý tưởng này giải thích tại sao trung thực là một nhân đức tốt, thì dối trá và “những sự thật lừa dối” đều không trung thực. Xét cho cùng, cả hai kiểu lừa dối đều đáng bị phản đối vì những lý do giống nhau. Cả hai đều có cùng một mục tiêu: mục đích của nói dối và lừa dối là làm cho người nghe có một niềm tin sai lầm. Ví dụ, thánh Athanasius đã khiến những kẻ truy bắt ông tin rằng ngài thực tế không phải là Athanasius. Nếu thánh Athanasius nói dối những kẻ tìm bắt mình, thay vì chỉ đơn thuần lừa dối họ, thì lời nói của ông cũng sẽ nhằm cùng một mục đích. Bởi vì cả hai hành động đều nhắm vào niềm tin sai lầm, cả hai đều có thể phá vỡ sự vận hành trơn tru của xã hội và cả hai đều vi phạm lòng tin. Nếu bạn buộc tội ai đó nói dối bạn, và người ấy đáp lại bằng cách nói rằng họ không nói dối – họ “chỉ” lừa dối bạn thôi - thì bạn sẽ không có cảm tình. Dù bằng cách nào, họ đã lợi dụng lòng tin của bạn và khiến bạn tin vào điều gì đó sai trái. Người trung thực sẽ không nói dối hay lừa dối.

Nhưng có phải người trung thực sẽ không bao giờ nói dối? Ví dụ của Geach khi đặt ra câu hỏi liệu nhân đức có đòi hỏi phải tuân thủ các quy tắc tuyệt đối hay không. Hãy phân biệt hai quan điểm:

1. Một người trung thực sẽ không bao giờ nói dối hay lừa gạt ai.

2. Một người trung thực sẽ không bao giờ nói dối hoặc lừa gạt ai ngoại trừ một số trường hợp hiếm hoi khi có những lý do thuyết phục để làm như vậy.

Bất chấp sự phản đối của Geach, vẫn có những lý do chính đáng để ủng hộ quan điểm thứ hai, ngay cả khi nói dối.

Đầu tiên, hãy nhớ rằng sự trung thực không phải là điều duy nhất chúng ta coi trọng. Trong một tình huống cụ thể, một giá trị nào đó có thể được ưu tiên hơn - ví dụ: giá trị của sự tự bảo tồn. Giả sử thánh Athanasius đã nói dối và nói, “Tôi không biết kẻ phản bội đó ở đâu,” và kết quả là, những kẻ truy đuổi ông ta đã lao vào một cuộc rượt đuổi ngông cuồng. Bấy giờ, mạng sống của thánh nhân sẽ được bảo đảm. Nếu điều này đã xảy ra, hầu hết chúng ta sẽ tiếp tục coi thánh Athanasius là người trung thực. Trong hoàn cảnh đó, thay vì nói ngài là một người không trung thực, chúng ta chỉ đơn thuần cho rằng ngài đã coi trọng mạng sống của mình hơn.

Hơn nữa, nếu xem xét tại sao tính trung thực là tốt, thì chúng ta có thể thấy rằng thánh Athanasius đã có lý khi nói dối những kẻ đuổi bắt mình. Rõ ràng, lời nói dối đó sẽ không làm gián đoạn hoạt động trơn tru của xã hội. Nhưng chẳng phải ít nhất nó đã vi phạm lòng tin của những người đang đuổi bắt ngài sao? Câu trả lời là, nếu nói dối là vi phạm lòng tin, thì nói dối là trái đạo đức, người mà bạn đang nói dối phải xứng đáng với sự tin tưởng của bạn. Nhưng trong trường hợp này, những người theo đuổi thánh nhân không xứng đáng với lòng tin của ngài, vì họ đã bắt bớ ngài một cách bất công. Vì vậy, ngay cả một người trung thực đôi lúc có đầy đủ lý do hợp lẽ để biện minh cho lời nói dối hoặc lừa dối của mình.

4. Lòng trung thành với bạn bè và gia đình. Tình bạn là điều cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp. Như Aristotle đã nói, “Không ai chọn sống mà không có bạn bè, ngay cả khi anh ta có tất cả những thứ khác”:

Làm thế nào sự thịnh vượng có thể được bảo đảm và gìn giữ nếu không có bạn bè? Sự thịnh vượng của chúng ta càng lớn thì những rủi ro mà nó mang lại càng nhiều. Ngoài ra, trong nghèo đói và tất cả các loại bất hạnh khác, con người tin rằng nơi nương tựa duy nhất chính là bạn bè của họ. Bạn bè giúp người trẻ tránh phạm phải những lỗi lầm; còn đối với những người lớn tuổi, những người đang trong thời suy yếu do bệnh tật, nhận được sự chăm sóc và giúp đỡ cần thiết.

Tất nhiên, lợi ích của tình bạn vượt xa sự hỗ trợ về vật chất. Về mặt tâm lý, chúng ta sẽ lạc lối nếu không có bạn bè. Những thành công của chúng ta sẽ là trống rỗng nếu không có bạn bè để chia sẻ và chúng ta càng cần bạn bè hơn trong những lúc thất bại. Lòng tự trọng của chúng ta phụ thuộc phần lớn vào sự công nhận của bạn bè: Bằng cách đáp lại tình cảm của chúng ta, họ khẳng định giá trị con người của chúng ta.

Nếu chúng ta cần bạn bè, thì chúng ta cần những phẩm chất giúp chúng ta trở thành một người bạn. Lòng trung thành dường như đứng đầu danh sách. Bạn gắn bó với bạn bè của mình ngay cả khi mọi thứ đang trở nên tồi tệ và ngay cả khi, có những lời bên ngoài xúi rằng bạn nên từ bỏ họ. Những người bạn thì nhường nhịn nhau; họ tha thứ cho những hành vi phạm tội và kiềm chế những chỉ trích cay nghiệt. Tuy nhiên, đôi khi trước những giới hạn -  chỉ có bạn bè mới có thể cho chúng ta biết sự thật phũ phàng về bản thân mình. Nhưng những lời chỉ trích từ bạn bè có thể chấp nhận được vì chúng ta biết rằng họ không chối bỏ chúng ta.

Điều này không đồng nghĩa với việc chúng ta phủ nhận bổn phận của mình đối với người khác, những người xa lạ với chúng ta. Nhưng những bổn phận đó gắn liền với những nhân đức. Lòng tốt cách chung là một nhân đức, và nó có thể đòi buộc rất nhiều, nhưng nó không đòi hỏi mức độ quan tâm đối với người lạ cũng phải giống như đối với bạn bè. Cũng như vậy khi xét đến nhân đức công bằng. Nó đòi hỏi thái độ đối xử vô tư đối với tất cả mọi người. Thế nhưng bạn bè thì trung thành với nhau, và vì vậy khi bạn bè có dính líu đến một vụ bê bối nào đó, những đòi hỏi thuộc về sự công bằng cũng sẽ bớt đi, có khunh hướng du di hơn cho bạn bè của mình.

Chúng ta thậm chí gần gũi với các thành viên trong gia đình hơn là với bạn bè, vì vậy chúng ta có thể dành cho gia đình mình lòng trung thành và sự thiên vị nhiều hơn. Trong Euthyphro của Plato, Socrates được biết Euthyphro đã đến tòa án để truy tố chính cha mình về tội giết người. Ông bày tỏ sự ngạc nhiên về điều này và tự hỏi liệu một người con có nên buộc tội cha mình hay không. Euthyphro thấy không có gì sai trái vì đối với anh ta, một vụ giết người là một vụ giết người. Euthyphro có lý, nhưng chúng ta vẫn có thể bị sốc khi một người nào đó có thể có thái độ đối với cha mình giống như thái độ mà anh ta dành cho một người lạ. Chúng ta có thể nghĩ rằng một người thân trong gia đình không cần phải can dự vào một vấn đề pháp lý như thế. Điểm này được công nhận trong luật pháp Hoa Kỳ: Tại Hoa Kỳ, một người không thể bị buộc phải làm chứng trước tòa để chống lại chồng hoặc vợ của mình.

Tại sao các nhân đức lại quan trọng? Chúng ta đã nói rằng các nhân đức là những nét tính cách tốt đẹp mà con người nên có. Điều này đặt ra câu hỏi tại sao nhân đức lại tốt. Tại sao một người nên can đảm, quảng đại, trung thực hoặc trung thành? Câu trả lời có thể phụ thuộc vào nhân đức đang xét đến. Như vậy:

• Lòng can đảm là tốt vì chúng ta cần nó để đương đầu với nguy hiểm.

• Sự quảng đại là điều nên làm vì sẽ luôn có người cần giúp đỡ.

• Lòng trung thực là cần thiết vì nếu không có nó, mối quan hệ giữa con người với nhau sẽ trở nên tồi tệ theo mọi cách.

• Lòng trung thành là điều cần thiết cho tình bạn; bạn bè sát cánh bên nhau ngay cả khi những người khác sẽ quay lưng lại.

Danh sách này gợi ý rằng mỗi nhân đức có giá trị vì một lý do khác nhau. Tuy nhiên, Aristotle đưa ra một câu trả lời chung cho câu hỏi của chúng ta - ông nói rằng các nhân đức rất quan trọng bởi vì người có đức hạnh sẽ sống tốt hơn. Vấn đề không phải là người có đạo đức sẽ luôn giàu có hơn; vấn đề là chúng ta cần những đức tính để phát triển.

Để hiểu được quan điểm của Aristotle, chúng ta hãy suy nghĩ tới câu hỏi: chúng ta là ai và chúng ta sống như thế nào? Ở cấp độ chung nhất, chúng ta là những tạo vật có tính xã hội, muốn được chung sống với những người khác. Vì vậy, chúng ta sống trong các cộng đồng giữa gia đình, bạn bè và xã hội. Trong bối cảnh này, những phẩm chất như lòng trung thành, công bằng và trung thực là cần thiết để có được sự tương tác tốt với người khác. Ở cấp độ cá nhân hơn, chúng ta có thể có một công việc và theo đuổi những sở thích của mình. Những nỗ lực đó có thể đòi hỏi những nhân đức khác, chẳng hạn như sự kiên trì và siêng năng. Cuối cùng, một phần trong tình trạng chung của con người chúng ta là đôi khi chúng ta phải đối mặt với nguy hiểm hoặc cám dỗ, vì vậy cần có lòng can đảm và tự chủ. Do đó, tất cả các nhân đức đều có cùng một loại giá trị chung: Chúng đều là những phẩm chất cần thiết cho một đời sống tốt.

Các nhân đức nơi mọi người có giống nhau không? Cuối cùng, chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu có một tập hợp các đặc điểm phù hợp với tất cả mọi người hay không? Chúng ta có nên nói về một kiểu người tốt, như thể tất cả những người tốt đều đến từ một khuôn mẫu? Friedrich Nietzsche (1844–1900) không nghĩ vậy. Theo lối nói cường điệu của mình, Nietzsche nhận xét:

Thật ngây thơ biết bao khi nói: “Con người phải thế này thế nọ!” Thực tế cho chúng ta thấy vô số kiểu loại đầy mê hoặc, sự phong phú của những cuộc ăn chơi xa hoa và việc thay đổi các hình thức - một nhà đạo đức học lười biếng khốn khổ nào đó đã bình luận: “Không! Con người phải khác đi.” Họ thậm chí còn biết con người phải như thế nào, kẻ cố chấp và tự cao khốn khổ này: anh ta vẽ mình lên tường và bình luận, “Ecce homo!” [“Đây là người!”]

Rõ ràng là có một cái gì đó cho điều này. Nhà học giả dành cả cuộc đời để tìm hiểu văn học trung cổ và người quân nhân chuyên nghiệp là những loại người rất khác nhau. Một phụ nữ thời Victoria không bao giờ để lộ chân nơi công cộng và một phụ nữ khỏa thân tắm nắng trên bãi biển có những tiêu chuẩn rất khác nhau về sự đoan trang. Tuy nhiên, đối với họ, mỗi kiểu tiêu chuẩn đều có thể phù hợp theo cách riêng của họ. Do đó, có thể thấy rõ rằng các nhân đức có thể khác nhau ở mỗi người. Bởi vì mọi người có những kiểu sống khác nhau, có những loại tính cách khác nhau và đảm nhận những vai trò xã hội khác nhau, nên những phẩm chất giúp họ phát triển có thể khác nhau.

Thậm chí có thể đi xa hơn nữa khi cho rằng giữa các xã hội sẽ có cách nhìn nhận về các nhân đức khác nhau. Xét cho cùng, một lối sống được xem là khả thi sẽ phụ thuộc vào các giá trị và thể chế chi phối trên một khu vực. Cuộc sống của một học giả chỉ có thể khả thi ở những nơi có được những tổ chức như các trường đại học, những tổ chức giúp cho việc nghiên cứu tri thức trở nên khả thi. Điều tương tự cũng có thể xảy ra khi trở thành một vận động viên, một linh mục, một geisha hay một chiến binh samurai. Những nét tính cách cần thiết để đảm nhận những vai trò đó sẽ khác nhau, và do đó, những đặc điểm cần thiết để sống thành công cũng sẽ khác nhau. Như vậy, các nhân đức sẽ khác nhau.

Về vấn đề này, có thể trả lời rằng có một số nhân đức nhất định sẽ cần thiết cho mọi người trong mọi thời đại. Đây là quan điểm của Aristotle, và có lẽ ông đã đúng. Aristotle tin rằng tất cả chúng ta đều có rất nhiều điểm chung, bất chấp sự khác biệt của chúng ta. Ông nói rằng “Người ta có thể quan sát khi một người đi đến những mảnh đất xa xôi, có cảm giác về việc hội nhập và sự công nhận, những thứ liên kết mọi người với nhau”. Ngay cả trong những xã hội khác biệt nhất, mọi người cũng phải đối mặt với những vấn đề cơ bản giống nhau và có những nhu cầu cơ bản giống nhau. Như vậy:

• Mọi người đều cần có lòng can đảm, bởi vì không ai (kể cả các học giả) luôn có thể tránh được nguy hiểm. Ngoài ra, mọi người cần có sự dũng cảm để chấp nhận rủi ro.

• Trong mọi xã hội, sẽ có một số người kém hơn những người khác; vì vậy, lòng quảng đại sẽ luôn được đánh giá cao.

• Trung thực luôn là một đức tính tốt vì không xã hội nào có thể tồn tại nếu không có sự giao tiếp đáng tin cậy.

• Ai cũng cần có bạn, và muốn có bạn thì trước hết phải là một người bạn; vì vậy, mọi người đều cần lòng trung thành.

Đối với Aristotle, danh sách này còn có thể mở rộng.

Tóm lại, có thể là đúng khi cho rằng trong các xã hội khác nhau có nhiều cách hiểu khác nhau về các nhân đức và có nhiều cách thế hành động khác nhau để thỏa đáng; và cũng có thể là đúng khi nhìn nhận giá trị của một nét tính cách sẽ thay đổi tùy theo từng người và từng xã hội. Nhưng sẽ không đúng khi nói rằng phong tục xã hội đóng vai trò quyết định trong việc xác định một đặc nét tính cách bất kỳ nào đó là một nhân đức. Những nhân đức chính yếu phải bắt nguồn từ một hoàn cảnh chung, tức từ chính thân phận con người của chúng ta.

12.3.Hai ưu điểm của Đạo đức Nhân đức

Đạo đức Nhân đức thường được cho là có hai điểm hạn chế.

1. Động cơ đạo đức. Đạo đức Nhân đức hấp dẫn bởi vì nó cung cấp một lối giải thích tự nhiên và thu hút về động cơ đạo đức. Hãy xem xét những điều sau đây:

Bạn đang nằm viện và dần hồi phục sau một căn bệnh.

Bạn cảm thấy buồn chán, vì vậy bạn rất vui khi Smith đến thăm. Bạn có một khoảng thời gian vui vẻ khi nói chuyện với anh ấy; chuyến thăm của anh ấy thực sự làm bạn vui lên. Một lúc sau, bạn nói với Smith rằng bạn rất vui khi được anh ấy ghé thăm, và cho rằng anh ấy thực sự là một người bạn tốt vì đã chịu khó đến gặp bạn. Nhưng, Smith nói, anh ấy chỉ đang làm nhiệm vụ của mình. Lúc đầu, bạn nghĩ rằng anh ấy chỉ khiêm tốn, nhưng bạn càng nói, bạn càng thấy rõ rằng anh ấy đang nói sự thật theo nghĩa đen. Anh ấy đến thăm bạn không phải vì muốn hay vì thích bạn, mà chỉ vì anh ấy nghĩ rằng mình nên “làm điều đúng đắn”. Anh ấy cảm thấy nhiệm vụ của mình là phải đến thăm bạn, có lẽ vì bạn là người khốn khổ hơn bất kỳ ai khác mà anh ấy biết.

Ví dụ này được triết gia người Mỹ Michael Stocker (1940 –) đưa ra. Như Stocker đã chỉ ra, bạn sẽ rất thất vọng khi biết động cơ của Smith; bây giờ chuyến thăm của anh ấy có vẻ lạnh lùng và tính toán. Bạn nghĩ rằng anh ấy là bạn của bạn, nhưng bây giờ bạn có suy nghĩ khác. Nhận xét về hành vi của Smith, Stocker nói: “Chắc chắn có điều gì đó thiếu sót ở đây – thiếu đi giá trị luân lý.”

Tất nhiên, không có gì sai với những gì Smith đã làm. Vấn đề là tại sao anh ấy làm vậy. Chúng ta coi trọng tình bạn, tình yêu và sự tôn trọng, đồng thời chúng ta muốn các mối quan hệ của mình dựa trên lòng yêu mến lẫn nhau. Hành động từ một ý thức trừu tượng về nghĩa vụ hoặc từ mong muốn “làm điều đúng đắn” là không giống nhau. Chúng ta không muốn sống trong một cộng đồng gồm những người chỉ hành động vì những động cơ như vậy, và bản thân chúng ta cũng không muốn trở thành một người như vậy. Do đó, các lý thuyết tập trung vào hành động đúng đắn không thể cung cấp một giải thích hoàn toàn thỏa đáng về đời sống đạo đức. Để làm được điều đó, chúng ta cần một lý thuyết nhấn mạnh những phẩm chất cá nhân như tình bạn, tình yêu và lòng trung thành - nói cách khác, một lý thuyết về các nhân đức.

2. Nghi ngờ về “lý tưởng” của tính công bằng. Một chủ đề nổi bật trong triết học đạo đức hiện đại là tính công bằng - ý tưởng rằng tất cả mọi người đều bình đẳng về mặt đạo đức và chúng ta nên coi lợi ích của mọi người đều quan trọng như nhau. Điển hình là Lý thuyết thực dụng. John Stuart Mill trong “Chủ nghĩa vị lợi,” viết “đòi hỏi [tác nhân đạo đức] phải nghiêm túc vô tư như một khán giả vô tư và nhân từ.” Cuốn sách bạn đang đọc cũng coi tính công bằng như một yêu cầu đạo đức cơ bản: Trong chương đầu tiên, tính công bằng đã được đưa vào “quan niệm tối thiểu” về đạo đức.

Tuy nhiên, người ta có thể nghi ngờ liệu tính công bằng có thực sự là một lý tưởng cao quý như vậy hay không. Hãy xem xét các mối quan hệ của chúng ta với gia đình và bạn bè. Liên quan đến lợi ích của gia đình và bạn bè, chúng ta có nên đối xử công bằng? Một người mẹ yêu thương con cái của mình và chăm sóc chúng tốt hơn những đứa trẻ khác. Cô ấy cư xử thiên vị với con cái của mình hết lần này đến lần khác. Nhưng có gì sai với điều đó? Đó không phải là cách mà một người mẹ nên làm sao? Một lần nữa, chúng ta yêu quý bạn bè của mình và sẵn sàng làm những điều tốt cho họ, những điều chúng ta sẽ không làm cho người khác. Có gì sai với điều đó? Mối quan hệ yêu thương là điều cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp. Nhưng bất kỳ lý thuyết nào nhấn mạnh đến tính công bằng sẽ gặp khó khăn trong việc giải thích điều này.

Tuy nhiên, một lý thuyết đạo đức nhấn mạnh đến các nhân đức có thể dễ dàng giải thích cho tất cả những điều này. Một số nhân đức thì công bằng, còn số khác thì không. Lòng trung thành liên quan đến sự thiên vị đối với những người thân yêu và bạn bè; lòng quảng đại liên quan đến sự quan tâm bình đẳng cho tất cả mọi người. Điều cần thiết không phải là một số yêu cầu chung chung về tính công bằng, mà là sự hiểu biết về mối quan hệ của những đức tính này với nhau như thế nào.

12.4 Nhân đức và đức hạnh

Như chúng ta đã thấy, các lý thuyết nhấn mạnh hành động đúng dường như không đầy đủ vì chúng bỏ qua vấn đề về tính cách. Đạo đức nhân đức khắc phục vấn đề này bằng cách coi tính cách là mối quan tâm chính của nó. Nhưng kết quả là, Đạo đức Nhân đức có nguy cơ không hoàn thiện theo một hướng khác. Các vấn đề đạo đức thường là các vấn đề về những gì phải làm. Đâu là lý thuyết về nhân đức có thể cho chúng ta biết về sự lượng giá, không phải tính cách, nhưng là hành động?

Câu trả lời sẽ phụ thuộc vào tinh thần mà Đạo đức Nhân đức được đưa ra. Một mặt, chúng ta có thể kết hợp những đặc điểm tốt nhất của cách tiếp cận hành động đúng đắn với những hiểu biết sâu sắc rút ra từ cách tiếp cận nhân đức—chẳng hạn, chúng ta có thể cố gắng cải thiện Chủ nghĩa vị lợi hoặc Chủ nghĩa Kant bằng cách bổ sung cho chúng một lý thuyết về tính cách đạo đức. Điều này có vẻ hợp lý. Nếu vậy, thì chúng ta có thể đánh giá hành động đúng chỉ bằng cách dựa vào Chủ nghĩa vị lợi hoặc Chủ nghĩa Kant.

Mặt khác, một số tác giả tin rằng Đạo đức Nhân đức nên được hiểu như một giải pháp thay thế cho các lý thuyết khác. Những tác giả này tin rằng Đạo đức nhân đức tự nó là một lý thuyết đạo đức hoàn chỉnh. Chúng ta có thể gọi đây là Đạo đức Nhân đức Triệt để. Một lý thuyết như vậy sẽ nói gì về hành động đúng đắn? Hoặc nó sẽ cần phải loại bỏ hoàn toàn khái niệm “hành động đúng đắn”, hoặc nó sẽ phải đưa ra giải thích nào đó về ý tưởng mà bắt nguồn từ quan niệm tính cách nhân đức.

Nghe có vẻ điên rồ, nhưng một số triết gia đã lập luận rằng chúng ta nên loại bỏ những khái niệm như “hành động đúng đắn về mặt đạo đức”. Anscombe nói rằng “sẽ là một cải tiến lớn” nếu chúng ta ngừng sử dụng những quan niệm như vậy. Cô ấy nói, chúng ta vẫn có thể đánh giá hành vi là tốt hoặc xấu, nhưng chúng ta sẽ làm như vậy trong các phạm vi ngôn ngữ khác.

Thay vì nói rằng một hành động là “sai trái về mặt đạo đức”, chúng ta sẽ nói rằng hành động đó là “không khoan dung” hoặc “bất công” hoặc “hèn nhát”—những thuật ngữ này bắt nguồn từ ngôn ngữ của nhân đức. Theo quan điểm của cô ấy, những thuật ngữ như vậy cho phép chúng ta nói tất cả những gì chúng ta cần nói. Nhưng những người ủng hộ Đạo đức Nhân đức Triệt để không nhất thiết phải bác bỏ những quan niệm như “đúng đắn về mặt đạo đức”. Những ý tưởng này có thể được giữ lại nhưng được đưa ra một cách giải thích mới trong khuôn khổ nhân đức. Chúng ta vẫn có thể đánh giá các hành động dựa trên những lý do có thể được đưa ra để ủng hộ hoặc chống lại chúng. Tuy nhiên, tất cả những lý do được trích dẫn sẽ là những lý do liên quan đến các nhân đức. Do đó, những lý do để thực hiện một số hành động cụ thể có thể là trung thực, quảng đại hoặc công bằng; trong khi những lý do chống lại việc làm đó có thể là không trung thực, keo kiệt hoặc không công bằng. Theo lối tiếp cận này, bất cứ điều gì đúng phải làm thì một người đạo đức sẽ làm.

12.5. Vấn đề của sự không đầy đủ

Sự phản đối chính yếu đối với Đạo đức Nhân đức Triệt để là nó không đầy đủ. Nó dường như không đầy đủ theo ba cách.

Đầu tiên, Đạo đức Nhân đức Triệt để không thể giải thích mọi thứ mà nó cần giải thích. Hãy xem xét một nhân đức điển hình, chẳng hạn như tính đáng tin cậy. Tại sao tôi nên đáng tin cậy? Rõ ràng, chúng ta cần một câu trả lời cho câu hỏi này điều mà vượt ra khỏi quan sát đơn giản rằng tính đáng tin cậy là một nhân đức. Chúng ta muốn biết tại sao tính đáng tin cậy là một nhân đức; chúng ta muốn biết tại sao nó tốt. Những lời giải thích khả dĩ có thể là tính đáng tin cậy là thế lợi của một người, hoặc tính đáng tin cậy sẽ thúc đẩy phúc lợi chung, hoặc tính đáng tin cậy là cần thiết cho những người phải sống cùng nhau và dựa vào nhau. Lời giải thích đầu tiên có vẻ đáng ngờ giống như Chủ nghĩa vị kỷ đạo đức; lời giải thích thứ hai là thực dụng; và lời giải thích thứ ba gợi lại Lý thuyết Khế ước xã hội. Nhưng không có lời giải thích nào trong số này được diễn đạt dưới dạng ngôn ngữ các nhân đức. Dường như bất kỳ lời giải thích nào về lý do tại sao một nhân đức cụ thể là tốt sẽ phải đưa chúng ta vượt ra khỏi những giới hạn bó hẹp của Đạo đức Nhân đức Triệt để.

Nếu Đạo đức Nhân đức Triệt để không giải thích tại sao một điều gì đó là một nhân đức, thì nó sẽ không thể cho chúng ta biết liệu những nhân đức đó có áp dụng được trong những trường hợp khó khăn hay không. Xét đến nhân đức tử tế. Giả sử tôi nghe được một số tin tức, những điều sẽ khiến bạn khó chịu khi biết về nó. Có lẽ tôi đã biết rằng một người mà bạn từng quen đã chết trong một vụ tai nạn xe hơi. Nếu tôi không nói với bạn điều này, bạn có thể không bao giờ biết. Cũng vậy, giả sử rằng bạn là kiểu người muốn được nói ra. Nếu tôi biết tất cả những điều này, tôi có nên báo tin cho bạn không? Điều gì sẽ là điều tử tế để làm? Đó là một câu hỏi khó, bởi vì điều bạn thích hơn - được nói ra - mâu thuẫn với điều khiến bạn cảm thấy dễ chịu - không được nói ra. Một người tử tế sẽ quan tâm nhiều hơn đến những gì bạn muốn, hay nhiều hơn đến những gì khiến bạn cảm thấy hài lòng? Đạo đức Nhân đức Triệt để không thể trả lời câu hỏi này. Tử tế là quan tâm đến lợi ích tốt nhất của ai đó; nhưng Đạo đức Nhân đức Triệt để không cho chúng ta biết lợi ích tốt nhất của ai đó là gì. Vì vậy, cách thứ hai mà lý thuyết không đầy đủ là nó không thể đưa ra một cách giải thích đầy đủ về các nhân đức. Nó không thể nói chính xác khi chúng (nhân đức) được áp dụng.

Cuối cùng, Đạo đức Nhân đức Triệt để không đầy đủ vì nó không thể giúp chúng ta giải quyết các trường hợp xung đột đạo đức. Giả sử tôi vừa cắt tóc - một kiểu tóc cá đối mà người ta chưa từng thấy kể từ năm 1992 - và tôi đặt bạn vào tình thế khó xử bằng cách hỏi bạn nghĩ sao. Bạn có thể nói với tôi sự thật, hoặc bạn có thể nói rằng tôi trông ổn. Trung thực và tử tế đều là những đức tính tốt, vì vậy có nhiều lý do để ủng hộ cũng như phản đối cho mỗi chọn lựa. Nhưng bạn phải làm điều này hoặc điều kia - bạn hoặc phải nói sự thật và chấp nhận không tử tế, hoặc chấp nhận không nói sự thật để tử tế. Bạn nên làm gì? Nếu ai đó nói với bạn, “Chà, bạn nên hành động có đạo đức trong tình huống này,” điều đó sẽ không giúp bạn quyết định phải làm gì; nó sẽ chỉ khiến bạn băn khoăn không biết nên theo đức tính nào. Rõ ràng, chúng ta cần sự hướng dẫn bên ngoài các nguồn của Đạo đức Nhân đức Triệt để.

Có vẻ như, tự bản thân Đạo đức Nhân đức Triệt để chỉ giới hạn ở những điều tầm thường: tử tế, trung thực, kiên nhẫn, rộng lượng, v.v. Các quan điểm rất mơ hồ và khi chúng mâu thuẫn với nhau, chúng ta phải nhìn xa hơn chúng để được hướng dẫn. Đạo đức Nhân đức Triệt để cần các nguồn lực của một lý thuyết lớn hơn.

12.6. Phần kết luận

Dường như cách tốt nhất nên coi Đạo đức Nhân đức như một phần của lý thuyết đạo đức tổng thể của chúng ta hơn là bản thân nó là một lý thuyết hoàn chỉnh. Toàn bộ lý thuyết sẽ bao gồm một sự giải thích cho tất cả các suy xét điều mà hình thành trong quá trình thực hiện quyết định cụ thể, cùng với các cơ sở hợp lý cơ bản của chúng. Câu hỏi đặt ra là liệu một lý thuyết như vậy có thể đáp ứng cả một quan niệm đầy đủ về hành động đúng đắn và một quan niệm liên quan về tính cách đạo đức hay không.

Tôi không thấy lý do tại sao không. Ví dụ, giả sử rằng chúng ta chấp nhận một lý thuyết thực dụng về hành động đúng đắn - chúng ta tin rằng một người phải làm bất cứ điều gì để dẫn đến hạnh phúc nhất. Từ quan điểm đạo đức, chúng ta muốn có một xã hội trong đó mọi người đều có cuộc sống hạnh phúc và thỏa mãn. Sau đó, chúng ta có thể hỏi hành động nào, chính sách xã hội nào và phẩm chất nhân cách nào sẽ phù hợp nhất dẫn đến kết quả đó. Khi ấy, một cuộc điều tra về bản chất của nhân đức có thể được tiến hành từ bên trong khuôn khổ rộng lớn hơn.

James Rachels

Chủ Nghĩa Nữ Quyền Và Đạo Đức Về Sự Quan Tâm

 Chủ Nghĩa Nữ Quyền Và Đạo Đức Về Sự Quan Tâm

Nhưng rõ ràng, các giá trị của phụ nữ tạo ra thường rất khác với những giá trị được tạo ra bởi nam giới; về bản chất, điều này cũng vậy. Dù thế nào đi nữa, những giá trị thuộc về phái mạnh luôn vượt trội.

Virginia Woolf, A ROOM OF ONE’S OWN (1929)



11.1 Về mặt đạo đức, Phụ nữ và nam giới có suy nghĩ khác nhau không?

Ý tưởng về phụ nữ và nam giới suy nghĩ khác nhau được sử dụng trong truyền thống để biện minh cho sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ.

Aristotle nói phụ nữ không có lý trí như nam giới, và do đó, một cách tự nhiên họ bị nam giới cai trị. Immanuel Kant đồng ý, ông nói thêm rằng phụ nữ “thiếu tư cách công dân” và không nên có tiếng nói trong đời sống công cộng. Jean-Jacques Rousseau đã cố gắng trình bày tích cực hơn về vấn đề này bằng cách nhấn mạnh việc phụ nữ và nam giới chỉ đơn thuần sở hữu những đức tính khác nhau; nhưng, tất nhiên, hóa ra đức tính của nam giới phù hợp với họ để lãnh đạo, trong khi đức tính của phụ nữ phù hợp với họ trong việc chăm sóc các thành viên trong gia đình.

Phản đối quan niệm này, không có gì ngạc nhiên khi phong trào của phụ nữa vào những năm 1960-1970 đã phủ nhận việc phụ nữ và nam giới khác nhau về mặt tâm lý. Quan niệm về nam giới như người sống lý trí và phụ nữ như người sống cảm xúc đã bị bác bỏ chỉ như một một khuôn mẫu. Tự nhiên không tạo ra điều khác biệt về tinh thần hay đạo đức giữa các giới, điều này đã được nói; và khi dường như có sự khác biệt, đó chỉ là do phụ nữ đã bị hệ thống áp bức quy định phải hành xử theo cách “nữ tính”.

Tuy nhiên, ngày nay, hầu hết các nhà nữ quyền đều tin rằng phụ nữ có suy nghĩ khác với nam giới. Tuy nhiên, họ nói thêm, cách suy nghĩ của phụ nữ không thua kém nam giới, cũng không phải những khác biệt để biện minh cho bất kỳ loại định kiến nào. Trái lại, cách suy nghĩ của phụ nữ mang lại những hiểu biết sâu sắc mà đã bị bỏ lỡ trong các lĩnh vực bị nam giới thống trị. Do đó, bằng cách quan tâm đến cách tiếp cận đặc biệt của phụ nữ, chúng ta có thể vươn đến sự tiến bộ trong các môn học bị đình trệ. Đạo đức được cho là

một ứng cử viên hàng đầu cho cách đối xử này.

Các giai đoạn phát triển đạo đức của Kohlberg. Hãy xem xét vấn đề sau đây, được nhà tâm lý học giáo dục Lawrence Kohlberg (1927–1987) nghĩ ra. Vợ của Heinz đang cận kề cái chết, và hy vọng duy nhất của cô ấy là một loại thuốc đã được phát hiện bởi một dược sĩ, người hiện đang bán nó với giá trên trời. Loại thuốc này tốn 200 đô la để sản xuất và dược sĩ đã bán nó với giá 2.000 đô la. Heinz chỉ có thể xoay sở được một nửa số tiền đó. Dược sĩ nói rằng một nửa là không đủ, và khi Heinz hứa sẽ trả phần còn lại sau, dược sĩ vẫn từ chối. Trong cơn tuyệt vọng, Heinz nảy ra ý định ăn trộm thuốc. Điều này có sai không?

Bài toán này, được biết đến như “Thế tiến thoái lưỡng nan của Heinz,” đã được Kohlberg sử dụng trong việc nghiên cứu sự phát triển đạo đức của trẻ em. Kohlberg đã phỏng vấn trẻ em ở nhiều độ tuổi khác nhau, đưa ra cho chúng một loạt tình huống khó xử và hỏi chúng những câu hỏi được thiết kế để bộc lộ suy nghĩ của chúng. Phân tích câu trả lời của những đứa trẻ, Kohlberg kết luận rằng có sáu giai đoạn phát triển đạo đức. Trong những giai đoạn này, trẻ em hoặc người lớn hiểu “đúng” về:

Phục tùng quyền lực và tránh bị trừng phạt (giai đoạn 1); thỏa mãn những ước muốn của bản thân và để người khác làm như vậy, ngang qua việc trao đổi công bằng (giai đoạn 2); nuôi dưỡng các mối quan hệ của họ và thực hiện các nhiệm vụ trong vai trò xã hội của người ấy (giai đoạn 3); tuân thủ pháp luật và duy trì phúc lợi của nhóm (giai đoạn4); duy trì các quyền và giá trị cơ bản của xã hội (giai đoạn 5); tuân thủ các nguyên tắc đạo đức trừu tượng, phổ quát (giai đoạn 6).

Vì vậy, nếu mọi việc suôn sẻ, chúng ta bắt đầu cuộc sống với mong muốn ích kỷ để tránh bị trừng phạt, và chúng ta kết thúc cuộc sống với một loạt các nguyên tắc đạo đức trừu tượng. Tuy nhiên, Kohlberg tin rằng chỉ có một số ít người trưởng thành đến được giai đoạn 5.

Tình trạng tiến thoái lưỡng nan của Heinz được đưa ra cho một cậu bé 11 tuổi tên là Jake, cậu bé nghĩ rằng việc Heinz ăn trộm thuốc là điều hiển nhiên nên làm. Jake giải thích:

Có điều, mạng người đáng giá hơn tiền bạc, và nếu người bán thuốc chỉ kiếm được 1.000 đô la, anh ta vẫn sẽ sống, nhưng nếu Heinz không ăn cắp thuốc, vợ của chú sẽ chết. (Tại sao cuộc sống đáng giá hơn tiền bạc?)

Bởi vì dược sĩ có thể lấy một ngàn đô la sau đó từ những người giàu mắc bệnh ung thư, nhưng Heinz không thể lấy lại vợ mình.

Bởi vì mọi người không giống nhau và như vậy bạn không thể tìm đâu ra vợ của Heinz một lần nữa.

Nhưng với Amy cũng 11 tuổi, lại nhìn vấn đề theo cách khác. Heinz có

nên ăn trộm thuốc? So với Jake, Amy có vẻ ngập ngừng và lảng tránh:

Ồ con không nghĩ vậy. Con nghĩ có thể có những cách khác ngoài việc

ăn trộm nó, chẳng hạn như nếu chú ấy có thể vay tiền hoặc mượn nợ hay làm gì đó, nhưng chú ấy thực sự không nên ăn trộm thuốc—nhưng vợ của chú cũng không nên chết. . . . Nếu chú Heinz ăn cắp thuốc, chú ấy có thể cứu được vợ mình, nhưng nếu chú làm thế, chú có thể phải ngồi tù, và sau đó vợ chú có thể bị bệnh trở lại, và chú không thể lấy thêm thuốc, và có thể đó là điều không tốt. Vì vậy, chú ấy thực sự chỉ nên nói thôi và tìm cách khác để có tiền.

Người phỏng vấn đặt cho Amy thêm một số câu hỏi, nhưng em không nhúc nhích; em từ chối chấp nhận các điều kiện mà vấn đề được đặt ra. Thay vào đó, em diễn đạt lại vấn đề như một cuộc xung đột giữa Heinz và dược sĩ cần phải được giải quyết bằng các cuộc thảo luận tiếp theo.

Xét về các giai đoạn của Kohlberg, Jake dường như đã tiến xa hơn Amy. Phản ứng của Amy là điển hình của những người hoạt động ở giai đoạn 3, nơi các mối quan hệ cá nhân là tối quan trọng—Heinz và dược sĩ phải giải quyết mọi việc giữa họ. Mặt khác, Jake lại viện đến những nguyên tắc khách quan—“mạng người đáng giá hơn tiền bạc.” Jake dường như đang hành xử ở một trong những giai đoạn sau.

Sự phản đối của Gilligan. Kohlberg bắt đầu nghiên cứu về hành vi được phát triển về đạo đức vào những năm 1950. Trở lại thời điểm đó, các nhà tâm lý học hầu như luôn luôn nghiên cứu hành vi hơn là quá trình được suy nghĩ, và các nhà nghiên cứu tâm lý logic được xem là những kẻ mặc áo khoác trắng quan sát những con chuột chạy qua mê cung. Cách tiếp cận dựa trên nhận thức, mang tính nhân văn của Kohlberg theo đuổi tri thức theo một cách hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, ý tưởng cốt lõi của ông có thiếu sót. Việc nghiên cứu cách mọi người suy nghĩ ở các độ tuổi khác nhau là hợp pháp—nếu trẻ em suy nghĩ khác ở độ tuổi 5, 10 và 15, điều đó chắc chắn đáng để biết. Nó cũng đáng để xác định những cách suy nghĩ tốt nhất. Nhưng những dự án này thì khác. Trên thực tế, một mặt bao gồm việc quan sát cách trẻ suy nghĩ như thế nào; mặt khác liên quan đến việc đánh giá các cách suy nghĩ tốt hơn hay tệ hơn. Các loại bằng chứng khác nhau có liên quan đến từng cuộc điều tra và không có lý do gì để giả định trước rằng các kết quả sẽ khớp với nhau. Trái ngược với ý kiến của những người lớn tuổi, hóa ra tuổi tác không mang lại sự khôn ngoan.

Lý thuyết của Kohlberg cũng bị chỉ trích từ góc độ nữ quyền. Năm 1982, Carol Gilligan đã viết một cuốn sách có tên là In a Other Voice, trong đó bà phản đối/ cảm thấy khó chịu với những gì Kohlberg nói về Jake và Amy. Bà cho biết, hai đứa trẻ có suy nghĩ khác nhau, nhưng cách suy nghĩ của Amy không thua kém cách nghĩ của Jake. Khi đối mặt với thế tiến thoái lưỡng nan của Heinz, Amy phản ứng với các khía cạnh cá nhân của tình huống, như phụ nữ thường làm, trong khi Jake, suy nghĩ như nam giới, chỉ nhìn thấy “mâu thuẫn giữa cuộc sống và tài sản có thể được giải quyết bằng suy luận logic.” Câu trả lời của Jake sẽ được đánh giá “ở mức độ cao hơn” chỉ khi một người giả định, như Kohlberg đã làm, rằng đạo đức dựa trên nguyên tắc cao hơn đạo đức về sự thân mật và quan tâm. Nhưng tại sao chúng ta nên giả định như vậy? Phải thừa nhận rằng, hầu hết các nhà triết học đạo đức đều ủng hộ đạo đức dựa trên nguyên tắc, nhưng đó có thể là do hầu hết các nhà triết học đạo đức đều là nam giới.

 “Lối suy nghĩ của nam giới” - sự hấp dẫn đối với các nguyên tắc khách quan - đã trừu tượng hóa những chi tiết mang lại hương vị đặc biệt cho mỗi tình huống. Gilligan nói, phụ nữ cảm thấy khó bỏ qua những chi tiết đó hơn. Amy lo lắng: “Nếu [Heinz] lấy trộm thuốc, lúc đó anh ấy có thể cứu được vợ mình, nhưng nếu làm thế, anh ấy có thể phải ngồi tù, sau đó vợ anh ấy có thể bị bệnh trở lại và anh ấy không thể kiếm thêm được thuốc nữa. thuốc." Jake, người đã giảm thiểu tình huống thành “mạng người đáng giá hơn tiền bạc”, phớt lờ tất cả những điều này.

Gilligan gợi ý rằng định hướng đạo đức cơ bản của phụ nữ là một trong những sự quan tâm: “chăm sóc” người khác theo cách cá nhân, không chỉ quan tâm đến nhân loại nói chung. Điều này giải thích tại sao phản ứng của Amy lúc đầu có vẻ bối rối và không chắc chắn. Sự nhạy cảm với nhu cầu của người khác khiến phụ nữ “chú ý đến tiếng nói khác với quan điểm của họ và đưa vào phán đoán của họ những góc nhìn khác.” Do đó, Amy không thể đơn giản bác bỏ quan điểm của dược sĩ; đúng hơn, cô ấy muốn nói chuyện với anh ấy và cố gắng thích nghi với anh ấy. Theo Gilligan, “Sự yếu kém về đạo đức của phụ nữ, thể hiện ở sự phân tán rõ ràng và sự mập mờ trong phán đoán, do đó không thể tách rời khỏi sức mạnh đạo đức của phụ nữ, mối quan tâm hàng đầu về các mối quan hệ và trách nhiệm.”

Các nhà nữ quyền khác đã lấy những ý tưởng này và nhào nặn chúng thành một quan điểm đặc biệt về đạo đức. Virginia Held (1929–) tóm tắt ý chính: “Quan tâm, đồng cảm, cảm thông với người khác, nhạy cảm với cảm xúc của nhau, tất cả có thể là kim chỉ nam tốt hơn cho những gì đạo đức đòi hỏi trong bối cảnh thực tế hơn là các quy tắc trừu tượng của lý trí, hoặc tính toán hợp lý, hoặc ít nhất chúng có thể là những thành phần cần thiết của một nền đạo đức đầy đủ.”

Trước khi thảo luận về ý tưởng này, chúng ta có thể tạm dừng để xem xét nó thực sự “nữ tính” như thế nào. Phụ nữ và nam giới có suy nghĩ khác nhau về đạo đức không? Và nếu họ có, tại sao như thế?

Có thật là phụ nữ và nam giới suy nghĩ khác nhau? Kể từ khi cuốn sách của Gilligan xuất hiện, các nhà tâm lý học đã tiến hành hàng trăm nghiên cứu về giới tính, cảm xúc và đạo đức. Những nghiên cứu này tiết lộ một số khác biệt giữa phụ nữ và nam giới.  Phụ nữ có xu hướng đạt điểm cao hơn nam giới trong các bài kiểm tra đo lường sự thấu cảm. Ngoài ra, quét não tiết lộ rằng phụ nữ có xu hướng thích thú hơn với việc nhìn thấy những người đối xử bất công với họ bị trừng phạt—có lẽ vì phụ nữ đồng cảm ngay cả với những người đã đối xử tệ với họ. Cuối cùng, phụ nữ dường như quan tâm nhiều hơn đến các mối quan hệ cá nhân thân thiết, trong khi nam giới quan tâm nhiều hơn đến mạng lưới các mối quan hệ bề nông rộng lớn hơn. Như Roy Baumeister đã nói, “Phụ nữ chuyên về phạm vi hẹp của các mối quan hệ thân mật. Nam giới chuyên về nhóm lớn hơn.”

Phụ nữ và nam giới có thể nghĩ khác nhau về đạo đức. Tuy nhiên, những khác biệt này không thể quá lớn. Không phải vì phụ nữ đưa ra những đánh giá mà nam giới không thể hiểu được, hoặc ngược lại. Nam giới có thể hiểu giá trị của mối quan hệ chăm sóc, ngay cả khi đôi khi họ phải được nhắc nhở; và họ có thể đồng ý với Amy rằng giải pháp hạnh phúc nhất cho Thế tiến thoái lưỡng nan của Heinz là hai người nam giới cùng giải quyết. Về phần mình, phụ nữ sẽ khó đồng ý rằng cuộc sống con người đáng giá hơn tiền bạc. Và khi chúng tôi xem xét các cá nhân, chúng tôi thấy rằng một số nam giới đặc biệt quan tâm, trong khi một số phụ nữ phụ thuộc nhiều vào trên nguyên tắc trừu tượng. Rõ ràng, hai giới không sống trong những thế giới đạo đức khác nhau. Một bài báo học thuật đã xem xét 180 nghiên cứu và phát hiện ra rằng phụ nữ chỉ quan tâm đến việc chăm sóc hơn nam giới một chút và nam giới chỉ quan tâm đến công lý hơn phụ nữ một chút. Tuy nhiên, ngay cả kết luận nhẹ nhàng này cũng đặt ra câu hỏi: Nhìn chung, tại sao phụ nữ phải quan tâm nhiều hơn nam giới?

Dường như có hai khả năng. Đầu tiên, chúng ta có thể tìm kiếm một lời giải thích mang tính xã hội. Có lẽ phụ nữ quan tâm nhiều hơn vì vai trò xã hội mà họ chiếm giữ. Theo truyền thống, phụ nữ phải làm việc nhà và chăm sóc con cái. Ngay cả khi kỳ vọng này là phân biệt giới tính, thì thực tế vẫn là phụ nữ thường thực hiện các chức năng này. Và thật dễ dàng nhận thấy việc chăm sóc gia đình có thể khiến một người áp dụng đạo đức chăm sóc như thế nào. Do đó, quan điểm chăm sóc có thể là một phần của điều kiện tâm lý mà các cô gái nhận được.

Mặt khác, chúng ta có thể tìm kiếm một lời giải thích di truyền. Một số khác biệt giữa nam và nữ xuất hiện từ rất sớm. Bé gái một tuổi sẽ dành nhiều thời gian để xem phim về khuôn mặt hơn là phim về ô tô, trong khi bé trai một tuổi thích ô tô hơn. Ngay cả những bé gái một ngày tuổi, chứ không phải bé trai một ngày tuổi, sẽ dành nhiều thời gian hơn để nhìn vào một khuôn mặt thân thiện hơn là nhìn vào một vật thể máy móc có cùng kích thước. Điều này cho thấy rằng phụ nữ có thể tự nhiên hòa đồng hơn nam giới. Nếu điều này là đúng, tại sao nó lại đúng?

Thuyết tiến hóa của Charles Darwin có thể cung cấp một số hiểu biết sâu sắc. Chúng ta có thể nghĩ về “cuộc đấu tranh sinh tồn” của Darwin như một cuộc cạnh tranh để có được số lượng gen tối đa của một người cho thế hệ tiếp theo. Những đặc điểm giúp hoàn thành mục tiêu này sẽ được bảo tồn trong các thế hệ tương lai, trong khi những đặc điểm chống lại mục tiêu này sẽ có xu hướng biến mất. Vào những năm 1970, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực Tâm lý học tiến hóa bắt đầu áp dụng những ý tưởng này vào tâm lý con người. Ý tưởng là con người ngày nay có những cảm xúc và xu hướng hành vi giúp tổ tiên của họ tồn tại và sinh sản trong quá khứ xa xôi.

Từ quan điểm này, điểm khác biệt chính giữa nam và nữ là nam giới có thể sinh hàng nghìn con, trong khi phụ nữ chỉ có thể sinh con chín tháng rưỡi một lần cho đến khi mãn kinh. Điều này có nghĩa là nam và nữ có các chiến lược sinh sản khác nhau. Đối với nam giới, chiến lược tối ưu là mang thai cho càng nhiều phụ nữ càng tốt. Làm xong việc đó, người nam giới không thể dành nhiều thời gian cho bất kỳ đứa trẻ cụ thể nào. Đối với phụ nữ, chiến lược tối ưu là đầu tư nhiều vào từng đứa con và chỉ quan hệ tình dục với những người nam giới sẵn sàng gắn bó. Điều này tạo ra sự căng thẳng giữa nam giới và phụ nữ, và nó có thể giải thích tại sao hai giới lại có những thái độ khác nhau. Nó giải thích nổi tiếng tại sao nam giới có ham muốn tình dục lớn hơn phụ nữ. Nó cũng giải thích tại sao phụ nữ có thể bị thu hút hơn nam giới bởi các giá trị của gia đình hạt nhân—đặc biệt là giá trị của sự quan tâm chăm sóc.

Loại giải thích này thường bị hiểu lầm. Vấn đề không phải là mọi người tính toán một cách có ý thức làm thế nào để truyền gen của họ; không ai làm điều đó. Cũng không phải là điểm mà mọi người nên tính toán theo cách này; từ quan điểm đạo đức, họ không nên. Vấn đề chỉ là để giải thích những gì chúng ta quan sát.

11.2 Hàm ý về sự phán xét đạo đức.

Không phải tất cả các nhà triết học nữ đều là những người ủng hộ nữ quyền, cũng như không phải tất cả các nhà nữ quyền đều chấp nhận đạo đức quan tâm. Tuy nhiên, đạo đức quan tâm được xác định chặt chẽ với triết học nữ quyền hiện đại. Như Annette Baier (1929–) đã nói, “quan tâm” là từ thông dụng mới.”

Một cách để hiểu về quan điểm đạo đức là hỏi xem sự khác biệt mà nó tạo ra là gì trong thực tế. Đạo đức quan tâm có hàm ý khác với cách tiếp cận đạo đức “nam giới” không? Dưới đây là ba ví dụ.


Gia đình Và Bạn. Truyền thống lý thuyết của nghĩa vụ là nổi tiếng là không phù hợp để mô tả cuộc sống giữa gia đình và bạn bè. Những lý thuyết đó coi khái niệm về những gì chúng ta nên làm là nền tảng đạo đức. Nhưng, như Baier nhận xét, khi chúng ta cố gắng coi việc “là những người cha người mẹ biết yêu thương” là một nghĩa vụ, chúng ta gặp phải vấn đề. Cha mẹ biết yêu thương được thúc đẩy bởi tình yêu, không phải bởi nghĩa vụ. Nếu cha mẹ quan tâm đến con cái chỉ vì họ cảm thấy đó là bổn phận của mình, con cái sẽ cảm nhận được điều đó và nhận ra rằng chúng không được yêu thương.

Hơn nữa, những ý tưởng về sự bình đẳng và không thiên vị tràn ngập các lý thuyết về nghĩa vụ dường như đối lập sâu sắc với các giá trị của tình yêu và tình bạn. John Stuart Mill (1806–1873) nói rằng một tác nhân đạo đức phải “hoàn toàn không thiên vị như một khán giả vô tư và không vụ lợi.” Nhưng đó không phải là quan điểm của cha mẹ hay bạn bè. Bởi lẽ, chúng ta không coi gia đình và bạn bè của mình chỉ đơn thuần như những thành viên trong đám đông nhân loại; chúng tôi nghĩ về họ như một điều gì đó đặc biệt.

 

Mặt khác, đạo đức quan tâm hoàn toàn phù hợp để mô tả các mối quan hệ như vậy. Đạo đức quan tâm không coi “nghĩa vụ” hay “bổn phận” là cơ bản; cũng không yêu cầu chúng ta thúc đẩy lợi ích của tất cả mọi người một cách vô tư. Thay vào đó, nó bắt đầu bằng một quan niệm về đời sống đạo đức như một mạng lưới của các mối quan hệ với những người cụ thể, và nó coi “sống tốt” là quan tâm cũng như đáp ứng nhu cầu của những người đó và duy trì sự tin tưởng của họ.

Những viễn cảnh này dẫn đến các đánh giá khác nhau về những gì chúng ta có thể làm. Tôi có thể dành thời gian và nguồn lực của mình để chăm sóc bạn bè và gia đình, ngay cả khi điều này có nghĩa là phớt lờ nhu cầu của người khác không? Từ quan điểm vô tư, nhiệm vụ của chúng ta là thúc đẩy lợi ích của tất cả mọi người như nhau. Nhưng ít người trong chúng ta chấp nhận quan điểm đó. Đạo đức về sự quan tâm khẳng định ưu tiên mà chúng ta vốn dành cho gia đình và bạn bè cách tự nhiên, và vì vậy nó có vẻ hợp lý hơn là đạo đức về nguyên tắc. Tất nhiên, không có gì ngạc nhiên khi đạo đức quan tâm dường như làm tốt công việc giải thích bản chất của các mối quan hệ đạo đức của chúng ta với bạn bè và gia đình. Rốt cuộc, những mối quan hệ đó là nguồn cảm hứng chính của nó.


Trẻ em nhiễm HIV. Trên khắp thế giới, khoảng 2,5 triệu trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm HIV, loại vi-rút có thể gây ra bệnh AIDS. Hiện tại, chỉ 1/4 số trẻ em đó được chăm sóc y tế tử tế, trong khi chỉ một nửa số phụ nữ mang thai nhiễm HIV đang thực hiện các bước để bảo vệ thai nhi của họ khỏi nguy cơ lây nhiễm HIV. vi-rút. Các tổ chức như UNICEF làm việc để cải thiện những con số này, nhưng họ không bao giờ có đủ tiền. Bằng cách đóng góp với công việc của họ, chúng ta có thể cứu sống.

Một nguyên tắc đạo đức truyền thống, chẳng hạn như Chủ nghĩa vị lợi, sẽ kết luận từ điều này rằng chúng ta có nghĩa vụ quan trọng là phải hỗ trợ UNICEF. Lý do rất đơn giản: Hầu như tất cả chúng ta tiêu tiền vào những thứ xa xỉ. Xa hoa không quan trọng bằng như bảo vệ trẻ em khỏi AIDS. Vì vậy, chúng ta nên trao ít nhất một khoản tiền của mình cho UNICEF. Tất nhiên, lập luận này sẽ trở nên phức tạp nếu chúng ta cố gắng để ý đến các tiểu tiết. Nhưng ý tưởng cơ bản là đủ rõ ràng.

Người ta có thể nghĩ rằng đạo đức quan tâm sẽ đi đến một kết luận tương tự - xét cho cùng, liệu chúng ta có nên quan tâm đến những đứa trẻ có hoàn cảnh khó khăn đó không? Đạo đức quan tâm tập trung vào các mối tương quan cá nhân ở quy mô nhỏ. Nếu không có mối tương quan như vậy, "chăm sóc" không thể diễn ra. Nel gật đầu (1929–) giải thích rằng mối quan hệ quan tâm chỉ có thể tồn tại nếu việc “được chăm sóc” có thể tương tác với “một người được chăm sóc”. Ở mức tối thiểu, người được chăm sóc phải có khả năng tiếp nhận và thừa nhận sự chăm sóc trong một cuộc gặp gỡ cá nhân, một đối một. Mặt khác, không có nghĩa vụ "chúng ta không có nghĩa vụ phải hành động như một người quan tâm nếu không có khả năng hoàn thành việc kia”. Do đó, Noddings kết luận rằng chúng ta không có nghĩa vụ phải giúp đỡ “những người túng thiếu ở những vùng xa xôi trên trái đất”.

 

Nhiều nhà nữ quyền coi quan điểm của Noddings là quá cực đoan. Bởi lẽ, học coi  các mối tương quan cá nhân là toàn bộ đạo đức. Một cách tiếp cận tốt hơn có thể là nói rằng đời sống đạo đức bao gồm cả những mối quan hệ chăm sóc lẫn sự quan tâm nhân từ đối với mọi người nói chung. Nghĩa vụ của chúng ta để hỗ trợ UNICEF sau đó có thể được coi là phát sinh từ nghĩa vụ nhân từ của chúng ta. Nếu chúng ta áp dụng cách tiếp cận này này tiếp cận, chúng ta có thể hiểu đạo đức của quan tâm như sự bổ sung cho các lý thuyết truyền thống hơn là thay thế chúng. Annette Baier dường như đã nghĩ đến điều này khi bà viết rằng, cuối cùng, “các nhà lý thuyết về phụ nữ sẽ cần phải kết nối đạo đức tình yêu của họ với những gì từng là mối bận tâm của các nhà lý thuyết về nam giới, cụ thể là nghĩa vụ.

Động vật. Chúng ta có nghĩa vụ đối với những động vật không phải con người không? Ví dụ, chúng ta có nên hạn chế ăn chúng không? Một lập luận từ một nguyên tắc đạo đức nói rằng cách chúng ta chăn nuôi động vật để làm thức ăn khiến chúng vô cùng đau khổ, và vì vậy chúng ta nên nuôi dưỡng bản thân mà không tàn ác. Kể từ khi phong trào bảo vệ động vật hiện đại bắt đầu vào những năm 1970, kiểu lập luận này đã thuyết phục nhiều người trở thành người ăn chay.

Noddings gợi ý rằng đây là một vấn đề hay “để kiểm tra các khái niệm cơ bản mà đạo đức quan tâm dựa vào.” Những quan niệm cơ bản đó là gì? Đầu tiên, một đạo đức như vậy thu hút trực giác và cảm giác hơn là nguyên tắc. Điều này dẫn đến một kết luận khác về việc ăn chay, vì hầu hết mọi người không cảm thấy rằng ăn thịt là sai trái hoặc sự đau khổ của vật nuôi là quan trọng. Noddings quan sát thấy rằng những phản ứng cảm xúc của chúng ta đối với con người khác với phản ứng của chúng ta đối với động vật.


“Khái niệm cơ bản thứ hai mà đạo đức quan tâm dựa vào” là tính ưu việt của các mối quan hệ cá nhân. Những mối quan hệ này, như chúng ta đã lưu ý, luôn luôn liên quan đến việc người được quan tâm tương tác với người quan tâm. Noddings tin rằng mọi người có mối quan hệ loại này với thú cưng của Khi một người quen thuộc với một họ động vật cụ thể, người ta sẽ nhận ra hình thức xưng hô đặc trưng của nó. Chẳng hạn, mèo ngẩng đầu và vươn người về phía con mà chúng đang hướng tới….Khi tôi đi nhà bếp vào buổi sáng và con mèo của tôi chào đón tôi từ vị trí yêu thích của nó trên quầy, tôi hiểu yêu cầu của nó. Đây là nơi mà nó ngồi và “nói” trong nỗ lực phát ra tiếng kêu để truyền đạt mong muốn của cô ấy về một đĩa sữa.


Một mối quan hệ được thiết lập, và thái độ quan tâm phải được để ý đến. Nhưng người ta không có mối quan hệ như vậy với con bò trong lò mổ, và vì vậy, Noddings kết luận, chúng ta không phải có nghĩa vụ không ăn nó. Những gì chúng ta có để làm điều này? Nếu chúng ta sử dụng vấn đề này “để kiểm tra các quan niệm cơ bản làm cơ sở cho đạo đức về sự quan tâm chăm sóc”, liệu đạo đức đó có vượt qua được những kiểm nghiệm hay không? Các lập luận đối lập là ấn tượng. Đầu tiên, trực giác và cảm giác không phải là những kim chỉ nam đáng tin cậy—đã có lúc, trực giác của con người nói với họ rằng chế độ nô lệ được chấp nhận và việc phụ nữ phải phục tùng nam giới là kế hoạch của Chúa. Và thứ hai, liệu con vật có sẵn sàng để đáp lại bạn một cách “cá nhân” hay không có thể ảnh hưởng nhiều đến sự hài lòng mà bạn nhận được từ việc giúp đỡ, nhưng nó không liên quan gì đến nhu cầu của động vật. Tương tự như vậy, việc một đứa trẻ ở xa có bị nhiễm HIV+ hay không không liên quan gì đến việc nó có thể đích thân cảm ơn bạn vì đã giúp nó tránh bị lây nhiễm hay không. Tất nhiên, những lập luận này dựa trên những nguyên tắc được cho là điển hình của nam giới. Vì thế, nếu như các đạo đức của quan tâm là tổng thể của đạo đức, những lập luận như vậy sẽ bị bỏ qua. Mặt khác, nếu sự quan tâm chỉ là một phần của đạo đức, thì những lập luận từ nguyên tắc sẽ có sức mạnh đáng kể. Gia súc có thể nằm trong phạm vị quan tâm về mặt đạo đức, không phải vì mối quan hệ quan tâm của chúng ta với chúng, nhưng vì những lý do khác.

11.3 Những hệ luỵ của Lý thuyết đạo đức

Dễ dàng nhận thấy ảnh hưởng của kinh nghiệm nơi con người trong các lý thuyết đạo đức mà họ đã tạo ra chúng.  Về phương diện lịch sử, nam giới có ảnh hưởng lớn trên đời sống cộng đồng, nơi các mối quan hệ thường mang tính cá nhân và khế ước. Trong chính trị và kinh doanh, các mối quan hệ thậm chí có thể trở thành đối nghịch khi xung đột lợi ích.  Vì vậy, chúng ta thương lượng; chúng ta mặc cả và thực hiện các giao dịch. Hơn nữa, trong đời sống cộng đồng, các quyết định của chúng ta có thể ảnh hưởng đến một số lượng lớn những người mà chúng ta không quen biết.  Vì vậy, chúng ta có thể cố gắng để tính toán quyết định nào sẽ có kết quả tổng thể tốt nhất cho hầu hết mọi người. Và lý thuyết của nam giới nhấn mạnh điều gì? Nhiệm vụ khách quan, hợp đồng, cân bằng lợi ích cạnh tranh, và tính toán chi phí và lợi ích. Do đó, không mấy ngạc nhiên khi các nhà nữ quyền buộc tội triết học luân lý là thiên vị với nam giới.

 Những mối băn khoăn về đời sống riêng tư gần như hoàn toàn không được nhắc đến, và “bằng giọng điệu khác” mà Carol Gilligan nói đến là sự im lặng. Một lý thuyết đạo đức phù hợp với mối quan tâm của phụ nữ sẽ trông rất khác với lý thuyết đạo đức trong truyền thống. Trong thế giới phạm vi nhỏ của bạn bè và gia đình, thương lượng và tính toán đóng một vai trò nhỏ hơn nhiều, trong khi tình yêu và sự quan tâm chiếm ưu thế. Một khi khía cạnh này được thiết lập, không thể phủ nhận rằng đạo đức phải tìm một vị trí cho khía cạnh này.

Tuy nhiên, đời sống riêng tư không dễ làm tương thích với các lý thuyết truyền thống. Như chúng ta đã lưu ý, “là một cha mẹ đầy yêu thương” không có nghĩa là tính toán xem một người nên cư xử thế nào. Điều tương tự cũng có thể nói về việc trở thành một người bạn trung thành hoặc một đồng nghiệp đáng tin cậy. Yêu thương, trung thành và đáng tin cậy là trở thành một kiểu con trai nhất định, điều này rất khác với việc “làm nhiệm vụ của mình” một cách vô tư.

Sự tương phản giữa “là một loại người nhất định” và “làm nhiệm vụ của bạn” nằm ở trung tâm của một cuộc xung đột lớn hơn giữa hai loại lý thuyết đạo đức. Đức hạnh coi việc trở thành một người có đạo đức là có những đặc điểm tính cách nhất định: tốt bụng, hào phóng, can đảm, công bằng, thận trọng, v.v. Mặt khác, các lý thuyết về nghĩa vụ nhấn mạnh nghĩa vụ công bằng: Họ miêu tả tác nhân đạo đức là người lắng nghe lý trí, tìm ra điều đúng đắn để làm và thực hiện nó. Một trong những lập luận chính cho Đạo đức Đức hạnh là nó có vẻ rất phù hợp để đáp ứng các giá trị của cuộc sống công cộng và riêng tư. Hai lĩnh vực đơn giản đòi hỏi những đức tính khác nhau. Đời sống công cộng đòi hỏi công lý và lợi ích, trong khi đời sống riêng tư đòi hỏi tình yêu và sự quan tâm.

Do đó, đạo đức chăm sóc có thể được hiểu tốt nhất là một phần của đạo đức nhân đức. Nhiều nhà triết học nữ quyền xem nó dưới ánh sáng này. Mặc dù Virtue Ethics (đạo đức đức hạnh) không phải là một dự án độc quyền về nữ quyền, nhưng nó gắn chặt với các ý tưởng nữ quyền đến mức Annette Baier gọi những người khởi xướng nam giới của nó là “những người phụ nữ danh dự”. Cuối cùng, phán quyết về đạo đức chăm sóc có thể phụ thuộc vào khả năng tồn tại của một lý thuyết rộng hơn về các đức tính.

James Rachels