Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Ơn Gọi Của GIa-kêu (TTCT 3.2025 Quay Xe)

 

GIA-KÊU “QUAY XE”



Lời Chúa: Lc 19, 1-10

Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.

Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”.

Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.

Khung cảnh: Hãy mường tượng khung cảnh thành Giêricô, nơi có đám đông lũ lượt đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó, Giakêu nghe người ta nói nhiều về Đức Giêsu, nhân vật tốt lành, giàu tình thương, uy tín, thiêng liêng. Chính khi ‘tò mò’ và để ý đến những điều thiêng liêng, cao quý… Giakêu đã tìm cách để gặp gỡ Giêsu, nhưng vì đám người đông và mình thấp bé, nên ông gặp nhiều khó khăn, cản trở; nhưng thay vì bỏ cuộc, Giakêu đã có sáng kiến trèo lên cây sung để tiện quan sát Giêsu từ đàng xa và từ trên cao. Chúa Giêsu đi ngang qua và thấy Giakêu ở trên cây, Chúa nói chuyện và vào thăm nhà ông. Được gặp Chúa Giêsu, cuộc đời Giakêu như bước sang một trang sử mới, đó là được ơn cứu độ.

Ơn Xin: Xin cho con có tấm lòng khao khát tìm gặp Chúa để được biến đổi và dám can đảm “quay xe” với con người cũ, sống con người mới trong tình yêu Chúa và tha nhân hơn.

Diễn giải Tin Mừng:

Thánh Luca là tác giả duy nhất thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Vậy Giakêu là ai? Không những là người thu thuế mà Giakêu là người đứng đầu những kẻ thu thuế (Tổng giám đốc cục thuế) và là người giàu có. Thông thường, người thu thuế thời Chúa Giêsu đều là người giàu có, vì của cải họ kiếm được thường là do gian lận. Họ bị người dân căm ghét, vì tiền thu thuế phải nộp cho ngoại bang là đế quốc Rôma. Rất nhiều trường hợp trong Tin Mừng cho thấy sự khinh bỉ của người dân đối với những người hành nghề thu thuế. Những người này cũng được đồng hoá với các tội nhân, như lời xầm xì của dân chúng: “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Thánh Luca không nói rõ Chúa Giêsu lưu lại ở nhà ông Giakêu bao lâu, nhưng vào thời đi lại khó khăn, chắc hẳn thời gian Chúa viếng thăm không chỉ trong chốc lát. Ông Giakêu, một người thấp bé về vóc dáng, nhưng lại thông minh về trí tuệ, và tha thiết về ước vọng muốn làm lại cuộc đời. Ông muốn gặp Chúa. Vì vóc dáng khiêm tốn của mình, ông đã trèo lên một cây sung để nhìn Chúa cho rõ.

Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu đã làm cho cuộc đời ông Giakêu sang trang mới. Trước những dị nghị của đám người đang ghen tức và bình phẩm, ông quả quyết tuyên bố sẽ canh tân bản thân. Ông nhận ra những lỗi lầm do việc gian lận, và nay ông hứa sẽ đền gấp bốn. Ông cũng sẵn sàng chia sẻ phần nửa tài sản cho người nghèo. Cuộc đời của ông Giakêu đã hoàn toàn đổi mới. Ông tìm thấy niềm vui và bình an khi sám hối và chia sẻ.

Gợi ý suy niệm và cầu nguyện:

1.     Cú Quay Xe Của Giakêu về Với Giá Trị Cốt Lõi

Hãy thử hình dung, Giakêu đứng đầu chế độ thu thuế thời đế quốc Roma để đô hộ dân Do Thái. Ắt hẳn ông là người giàu có, tài năng và đầy danh vọng. Tuy nhiên, trong lòng ông có thể vẫn chưa được bình an sâu lắng và hạnh phúc đích thực, bởi vì đời sống nội tâm của ông thường bị dằn vặt, tra vấn trước những lời chỉ trích, đàm tiếu, soi mói, hạ bệ, khinh thị...của mọi người. Hay sâu xa hơn, Giakêu muốn tìm kiếm một giá trị cao quý, bền vững và thiêng liêng hơn. Đó là một giá trị cốt lõi mang tính siêu việt và siêu nhiên hơn những gì là vô thường và tầm thường mà ông đang nắm giữ.

Nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua nhà mình, Giakêu tìm cách để nhìn xem Giêsu là người như thế nào? Dĩ nhiên, trước đó có thể Giakêu đã nghe biết Giêsu là người công chính, thánh thiện và giàu lòng thương xót khi chữa lành bệnh tật, yêu thương người nghèo hèn khốn khổ, rao giảng Lời Chúa, sự sống Nước Trời… Thế nên, Giakêu được ấn tượng bởi hình ảnh nhân hậu và từ bi của Giêsu và ông tìm cách gặp Người.

Thực tế, ta thấy Giakêu phải từ bỏ mình nhiều lắm, khi là một ‘giám đốc cục thuế’ với danh tiếng và địa vị cao, mà lại phải trèo lên cây sung như một đứa trẻ con và làm một việc như ‘trò hề’ vậy. Hơn nữa, là một người không còn trẻ mà lại trèo lên cao sẽ khá nguy hiểm đến tính mạng, chưa kể nhiều khi có côn trùng, rắn rết, muỗi bọ, kiến, ong, bọ, sâu… bò vào người, thậm chí dễ dàng bị trầy xước da thịt và dơ bẩn quần áo. Thế nhưng, vượt qua những rào cản đó, thậm chí cả về thể lý nhỏ bé, tâm lý bị coi thường, …với lòng can đảm và khát khao tìm gặp Chúa Giêsu, Giakêu đã được như ý sở nguyện, Chúa đến thăm ông.

Hãy thử hình dung khung cảnh Giêsu ngước nhìn lên Giakêu nhỏ nhắn đang run rẩy ở trên cây và hằng trăm con mắt nhìn lên ông, có lẽ ông sẽ đỏ mặt và vô cùng lúng túng. Tuy nhiên, ánh mắt nhân từ của Giêsu đã đụng chạm vào đôi mắt thẳm sâu đầy khao khát hướng thiện của Giakêu. Dường như Giêsu đã đụng chạm đến chiều sâu thầm kín của Giakêu, khiến ông có thể hết sức cảm động và hạnh phúc đến rơi lệ khi được Chúa yêu thương và quan tâm. Ở đây, ta thấy Thiên Chúa luôn đi bước trước để tìm kiếm và gặp gỡ con người. Bởi vì, Thiên Chúa luôn thấu suốt tâm hồn, tấm lòng của chúng ta. Chỉ cần ta có khao khát tìm gặp Chúa, chắc chắn Người sẽ không để ta phụ lòng.

Thật vậy, Thiên Chúa đã hạ mình xuống để đi tìm kiếm con người, nay Chúa lại ngước mắt nhìn con người. Ánh mắt của Giêsu và ánh mắt của Giakêu đã gặp nhau. Ánh mắt Chúa đã thuyết phục ông. Đáp lại, ông “vội vàng tụt xuống” và mừng rỡ đón rước Người. Chúng ta tưởng tượng thấy một Giakêu rất vui vì được Chúa chủ động đề nghị đến thăm nhà ông. Ông vốn mặc cảm trước ánh mắt của người đời, chỉ mong lén nhìn thấy Chúa, thì nay, ánh mắt của Thiên Chúa lại tìm kiếm ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa đã xoá đi mọi khoảng cách. Đối với Chúa Giêsu, trước mặt Người không còn là thu thuế hay biệt phái, không còn là người giàu hay nghèo, mà là con cháu tổ phụ Abraham. Con cháu Abraham tức là dòng dõi những kẻ tin. Nhờ lòng tin mà ông được cứu rỗi.

Càng suy nghĩ kỹ, ta càng thấy Giakêu đã có một cuộc “quay xe” nghiêm túc với Thiên Chúa để chọn lựa những giá trị cốt lõi cho cuộc đời mình đó là ơn cứu độ, sự sống đời đời. Dĩ nhiên, cuộc “quay xe” của Giakêu sẽ gặp không ít những khó khăn, trắc trở, và gian nan. Bởi ông sẽ phải từ bỏ cuộc sống sung túc, giàu sang, tiện nghi và thoải mái, thay vào đó là sự bấp bênh, và nghiêm túc hơn với lề luật Chúa. Thế nên, bất cứ cuộc “quay xe”, “trở lại” và “trở về cùng với Chúa” đều phải từ bỏ một số điều nào đó.

Reflections:

-        Đâu là những giá trị cốt lõi trong đời sống của tôi? Phải chăng là nhiều tiền bạc, danh vọng và địa vị cao? Hay là đời sống thân mật với Thiên Chúa? Xây đắp giá trị tình thương và lòng nhân ái?

-        Điều gì làm cản vướng tôi “quay xe” về với Thiên Chúa? Phải chăng là bận rộn của việc kiếm tìm cơm áo, gạo tiền, hay những tiện nghi của thời hiện đại… Khiến tôi gặp nhiều khó khăn để đến với Thiên Chúa? Trong mùa Chay Thánh này, tôi sẽ “từ bỏ” những điều gì để có thể “quay xe” về với Thiên Chúa?

2.     Kinh Nghiệm Gặp Gỡ với một Thiên Chúa thứ tha

Trong cuốn sách “Thực Hành Linh Hướng” của cha William A. Barry và William J. Connolly đã viết rằng: “Để hướng dẫn người khác trên đường thiêng liêng, trước hết cần hỏi họ kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa, chẳng hạn: Thiên Chúa là ai đối với bạn và ngược lại, bạn là ai đối với Ngài?” Thực tế, Giakêu đã có một kinh nghiệm cá vị với Chúa Giêsu, trong đó, ông cảm thấy mình được Thiên Chúa quan tâm, yêu thương và tha thứ tội lỗi. Thậm chí, Thiên Chúa còn ban ơn cứu độ cho ông “hôm nay, ơn cứu độ đến trên nhà này.”

Chính kinh nghiệm cá vị về tình yêu Thiên Chúa đã làm cho Giakêu được biến đổi, ‘hoàn lương’, sám hối (hoàn trả gấp 4) và hướng thiện hơn. Giakêu đã trở nên công chính và được ơn cứu độ.

Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá huỷ tất cả mọi sự, và mất tất cả.

Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng Shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, quì xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau:

“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Mọi tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài: Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.

Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu.

Refections:

-        Trên đây là kinh nghiệm của Harold Hughes về Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa ông. Vậy tự vấn chính mình, có lần nào ta có một kinh nghiệm về việc Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa chính mình chưa?

-        Rất nhiều lần Chúa đứng trước cửa lòng ta và gõ cửa, hay ngước nhìn lên ta như ánh mắt nhìn Giakêu, nhưng có thể ta đã không mở ra đón tiếp Giêsu đến thăm?

-        Xin Chúa giúp con xây dựng tương quan tình thân với Ngài, dám dành giờ cho Ngài.

 

 

 

 

 

 

Kinh Manificat

 

Manificat, Cùng Đức Maria đếm những ân ban

 




Ơn Xin: Xin Thiên Chúa giúp con nhìn lại một năm qua, để nhận ra những ân sủng mà Chúa đã ban cho con, để con biết sống tâm tình tạ ơn Ngài mỗi ngày. Trong năm mới này, xin bàn tay Chúa nắm lấy tay con và dẫn dắt trên những nẻo đường mà Chúa muốn con đi.

Bối cảnh bản văn Tin Mừng.

Sau khi được sứ thần Gabriel truyền tin: người chị họ lớn tuổi Elizabeth đang mang thai, mẹ Maria liền vội vã lên đường đi thăm và chăm sóc người chị họ đang trong thời kỳ thai nghén và chuẩn bị sinh con. Theo lời truyền tụng từ thế kỷ thứ 5, gia đình Giacaria ở triền núi, trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem 7 cây số về phía tây. Đường đi từ Nazareth đến Ain Karim trên đồi, cách Giêrusalem 6 km và phải mất 3-4 ngày đường để di chuyển (cách Nazaret khoảng 160 km). Do đó, chắc hẳn cuộc hành trình của cô Maria lên miền núi không tránh được những mệt nhọc vất vả. Thế nhưng, dù đường xa vạn dặm, rừng núi trùng điệp, mẹ Maria vẫn hăng hái, hân hoan lên đường. Vừa gặp mẹ Maria, bà Elisabeth lớn tiếng hô lên: “bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến viếng thăm…”. Lúc đó, được đầy tràn Thánh Thần, trong tâm tình tạ ơn Chúa, Mẹ Maria cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…”

Lectio Divina: Tin mừng: Lc 1, 46-56

46 Bấy giờ bà Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47
 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
55
 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.


 

1.     Chiêm Niệm, ngợi khen và tạ ơn Chúa

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi”. Đây là lời tri ân cảm mến, ngợi khen tán dương Thiên Chúa của mẹ Maria khi gặp bà Elisabeth. Lời kinh Manificat như lời tạ ơn Thiên Chúa bay cao giữa muôn trung núi non, làm rạng danh Thiên Chúa với công trình hùng vĩ bao la mà Người đã thực hiện trên cuộc đời mẹ Maria. Công trình của Thiên Chúa thật mới mẻ và lạ lùng, bởi chuyện đó trước giờ chưa từng xảy ra, “Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng con người”. Dường như, thời gian như ngừng đọng, trái đất như ngừng quay để lắng nghe lời thốt lên của Đấng Đầy Ân Sủng và Được Thiên Chúa Ở Cùng: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Bản văn KT mô tả lời Đức Mẹ với danh từ “δούλη” (doule) vừa có nghĩa là “nữ phục vụ”, vừa có nghĩa là “nữ nô lệ”. Đây là một sự tương phản khi Thiên Chúa hùng vĩ, cao sang trên chín tầng trời, còn mẹ Maria chỉ nhận mình là nữ tì hèn mọn, mà Chúa đã đoái thương nhìn tới.

Chính sự chênh lệch địa vị này làm cho mẹ Maria cảm thấy tình thương và vinh dự mà Thiên Chúa ưu ái, ban tặng cho mẹ lớn lao dường nào. Ơn huệ lớn lao đến nỗi người chị họ phải “lớn tiếng kêu lên: bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến viếng thăm.” Bà Elizabeth cũng nhận ra những phúc lành mà Chúa tặng ban cho người em họ. Không phải chỉ có người chị họ khen mẹ Maria rằng: “em thật có phúc” trong lúc biến cố viếng thăm, nhưng mà “từ nay muôn thế hệ sẽ xem rằng tôi có phúc” (Lc 1,48). Tất cả là vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả. Những điều cao cả có thể là những điều mà sứ thần đã đề cập đến trong biến cố truyền tin. Cao cả nhất là trở thành “Thân Mẫu của Đức Chúa”.

“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! (c. 49)” Mẹ Maria đã chiêm ngắm cuộc đời mình để thấy việc Thiên Chúa làm trên cuộc đời mẹ, thật lạ lùng! Một bầu khí thiêng liêng, đan xen với cảm xúc hân hoan, sướng vui, hạnh phúc nơi mẹ Maria. Mẹ không quy hướng mọi phúc vinh đó về mình, nhưng quy về Thiên Chúa, “danh Người thật chí thánh, chí tôn.” à Nhìn lại một năm qua, ta tự hỏi đâu là những ơn lành, phúc lộc mà Thiên Chúa ban cho tôi? Mọi phúc vinh đó là do chính khả năng, sức lực phấn đấu của tôi hay là ơn Chúa ban? Tôi quy hướng mọi thành công và thất bại về chính mình hay về Thiên Chúa? Hay cả hai?

“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (c. 50)” Trong sách Châm Ngôn (9,10) đã viết: “kính sợ Chúa là đầu mối của sự không ngoan”. Thật vậy, những kẻ kiêu căng, quyền thế thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ, Người nâng cao những kẻ khiêm nhường, kính sợ Chúa. Nhìn lại chính mình, có khi nào ta chẳng cảm thấy “kính sợ Chúa”, điển hình như việc phạm tội cố hữu nào đó, dù biết là điều không đẹp lòng Chúa, nhưng ta vẫn cứ thích làm! Chẳng hạn như: nói hành nói xấu, ham mê danh, dục vọng, lười nguyện gẫm kinh hạt, cầu nguyện với Chúa…?

Kế đến, Mẹ Maria tiếp tục diễn tả về tình yêu và lòng thương xót của Chúa như: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đây dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”

Mẹ đã nhìn lại lịch sử cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại, cụ thể là dân Israel, từ thời tổ phụ Apraham cho đến nay. Tình thương Chúa luôn dạt dào, bao phủ mặt đất, qua bao thế hệ, những ân tình của Chúa luôn vạn đại thiên thu. Thật vậy, chỉ khi nhìn lại những chặng đường đã qua, ta có thể dễ dàng nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trong tâm tình tri ân, cảm mến. Đức Giáo Hoàng Phanxico đã từng nói: “người hạnh phúc nhất là người biết mình được TC yêu thương và biết ơn là một trong những tâm tình khiến ta sống hạnh phúc trong tình nghĩa với Thiên Chúa.”

Hy vọng niềm vui ơn cứu độ sẽ đến với nhân loại chúng ta hôm nay, trước tiên cần khởi sự từ chính bản thân mỗi người. Nhìn lại đời mình, cụ thể một năm qua, để thấy những ơn lành Chúa ban trên cuộc đời mình. Ơn thường sủng và ơn đặc sủng. Chẳng hạn như: Giữa thế giới chiến tranh loạn lạc, nhiều người sống trong cảnh tị nạn, màn trời chiếu đất, đói khát cơm bánh, nước non, bệnh tật… Ta có ngôi nhà ấm cúng, bữa ăn ngon, những tiện nghi tiêu xài hằng ngày… Đó chẳng phải là ơn thường sủng mà Chúa ban cho ta hay sao?

Thuở thơ bé, có thể ta thường dạo chơi dưới cơn mưa, hay đưa đôi bàn tay để hứng nước mưa từ mái hiên nhà, những hạt mưa tí tách rơi, đua nhau nhảy múa trên sân, trên đôi bàn tay của ta. Những giọt nước mưa tràn trề, chan chứa… Cũng thế, ân sủng Chúa dạt dào như mưa như mưa, chỉ có điều là lòng ta có đủ rộng để đong đầy và chất chứa những hồng ân đó hay không mà thôi! Không biết vì đôi tay của ta quá lớn hay ơn Chúa quá ít mà có thể tôi chưa bao giờ cảm thấy đầy đủ và no thỏa để nói lên lời tạ ơn?

Câu chuyện biết ơn: Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu cũng tìm đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói: “Cảm ơn dòng suối nhỏ nhé”.

Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ liền hỏi: “Sao cháu lại cười?” Đứa cháu trả lời: “Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối chứ? Nó có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông”.

Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Dòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong cánh rừng. Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo với đứa cháu: “Thế đấy, dòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết ơn dòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ. Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không?”

Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rãi bảo cháu: “Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành chó sói”.

Lạy Chúa! Con xin tạ ơn Chúa vì chúng con có được của ăn trong một thế giới còn nhiều người phải đói khát, chúng con có được niềm tin trong một thế giới con nhiều người phải sợ hãi, chúng con có được tình bạn trong một thế giới còn nhiều người phải lẽ loi. Chúng con xin tạ ơn Chúa vì tất cả những ơn lành mà Chúa ban! Có những ơn chúng con thấy được và cả những ơn chúng con chưa nhận ra. Noi gương Mẹ Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Xin cho chúng con biết ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước ơn lành của Thiên Chúa và can đảm quy hướng tất cả mọi hồng ân về chính Chúa, để chúng con biết sống trong tâm tình tạ ơn và yếu mến Chúa hơn mỗi ngày. Amen

 

 

 

2.     Tạ ơn Chúa và dấn bước lên đường gặp gỡ tha nhân

Khi Mẹ Maria gặp được Chúa, có Chúa trong lòng, và nhận ra những ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa tặng ban, Mẹ Maria không chỉ giữ cho riêng mình, nhưng hân hoan, hăng hái “lên đường hành hương” để “gặp gỡ tha nhân”, đây chính là “Niềm Vui Tin Mừng” của Mẹ.

Mẹ Maria đã “ra khỏi mình để gặp gỡ” người chị họ già yếu, mang nặng đẻ đâu và Mẹ bất chấp mọi nguy hiểm, nhọc mệt, gian nan, khó khăn…Chỉ vì tình yêu và muốn đem Chúa đến cho chị họ. Có lẽ, Mẹ tin rằng có Chúa cùng đồng hành, chẳng có chi nguy biến. Chính Đức Giáo Hoàng Phaolo VI đã nói: “Đức Maria là người môn đề đầu tiên và trọn hảo nhất của Đức Ki-tô và trọn hảo nhất về mặt đức tin.” Apraham là cha của những kẻ tin, dù ông được có lời hứa “đất và dân”, còn Mẹ Maria chẳng có lời hứa nào khác ngoài niềm tin của Mẹ là đặt mình trong tay Thiên Chúa.

 Ngày nay, con người thường có xu hướng muốn thu mình lại trong vùng an toàn, sống với chiếc điện thoại để nhìn cả thế giới trong căn phòng nhỏ bé của mình. Bước ra ngoài vùng an toàn, chắc hẳn sẽ có nhiều hiểm nguy, ra đường có thể dễ gặp tai nạn giao thông, gặp người mình quen đi chơi, ăn uống có thể tốn kém, nói chuyện với bạn bè có thể gặp bất đồng quan điểm, nghĩ tiêu cực về nhau… Có lẽ, chọn lối sống an phận thủ thường sẽ dễ dàng hơn việc giao kết, liên lạc và giữ tương quan với nhiều người, đặc biệt là những người mình không ưa thích, hoặc họ có địa vị thấp kém, nghèo hèn, quê mùa, dốt nát…

Tóm lại, chỉ khi ta gặp được Chúa, thấy được ân sủng Người ban, lòng tràn đầy sướng vui, hạnh phúc… ta mới can đảm, tin tưởng nơi bàn tay Chúa mà gieo bước lên đường, chia sẻ niềm vui Tin Mừng cứu độ đến với mọi người. Có thể đó là một cuộc thăm viếng với lời khích lệ, ủi an, như Mẹ Maria đển để vỗ về, an ủi nỗi tủi hổ mà bà Elizabeth đã gánh chịu bao năm qua vì vô sinh hiếm muộn, bởi miệng lưỡi người đời cho là vô phúc.

Hơn nữa, mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, cao trọng tựa như “Hoàng Thái Hậu”, nhưng Mẹ Maria vẫn khiêm nhường và cúi mình để phục vụ người chị họ, chứ không phải được phục vụ. Đây là tấm gương tuyệt diệu mà người “có Chúa ở trong lòng” mới có thể làm nên.

Nhìn lại thời gian đã qua, tôi có thấy mình tràn đầy niềm vui khi gặp được Chúa và hân hoan lên đường đem Chúa đến cho mọi người hay chưa? Đâu là điều cản trở tôi gặp được Chúa? Đâu là niềm vui thường ngày của tôi là gì? Có phải là Thiên Chúa hay không? Trong năm mới này, tôi sẽ có những dự phóng nào để đáp lại những lời gọi mời của Chúa cho cuộc đời tôi? Tôi có thể làm một hành động nhỏ là dành một số giờ cầu nguyện với Chúa, tham dự thánh lễ, cầu nguyện trước Thánh Thể, đi thăm viếng người thân, họ hàng dịp tết, thăm những người nghèo khổ và kém may mắn ở xung quanh ta...?

Lạy Chúa! Như Mẹ Maria đã gặp được Chúa, Mẹ tràn đầy niềm vui, để lên đường hành hương, gặp gỡ và giúp đỡ tha nhân. Xin cho con lòng tin mến, trên cuộc lữ hành đức tin, biết yêu mến và noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng ra khỏi mình để đến với tha nhân, gặp gỡ, phục vụ và trao ban Chúa cho họ. Amen.

Mở bài nhạc: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…

Có Tiếng Hô Trong Hoang Địa

 

DẤU CHÂN HÒA BÌNH

 (Ga 1, 19-28)


 

19 Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai? “20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.”

21 Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.”

22 Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông? “23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.

24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. 25 Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?26 Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”

28 Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

----------------------*************----------------------

Tiền nguyện: Xin cho mọi tư tưởng, lời nói và hành động, từ ngoại tại đến nội tại của con, đều quy hướng về việc phụng sự, ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.

Khung cảnh: Hãy hình dung khung cảnh bên bờ sông Giodan, nơi có đông đảo người đến để xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Trong số đó, có một số người đến để tra vấn về việc làm của Gioan Tẩy Giả. Kế đến, đó là những hồi đáp và chứng từ của Gioan về Chúa Giêsu.

Ơn Xin: Xin Thiên Chúa cho con có cảm nhận thâm sâu về Chúa Giêsu, Đấng đã làm người vì con để cứu chuộc con, để con yêu mến và bước theo Ngài sát gót hơn. Xin Chúa cũng cho con nhận ra những “dấu chân” âm thầm mà Ngài song hành cùng con qua mỗi chặng đường đời vừa qua, nhờ “dấu chân hòa bình” của Chúa con biết đem lại bình an, hạnh phúc và hy vọng cho mn.


 

Một vài gợi ý cho bài cầu nguyện

1.     Diễn nghĩa bản văn Tin Mừng

Bối cảnh bản văn Tin Mừng trên (Ga 1, 19-28) thuật lại cho ta những chứng từ của thánh Gioan Tẩy Giả. Sau khi ăn chay và cầu nguyện thời gian dài trong sa mạc, Gioan TG bắt đầu sứ vụ công khai của mình bằng việc kêu gọi toàn dân ăn năn sám hối và chịu phép rửa (chịu phép rửa là dấu chứng). Gioan khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là tiếng hô trong hoang địa và lặp lại lời của Isaia năm xưa “hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”.

Hành động trên của Gioan đã khiến nhiều người thắc mắc, tò mò và đến tìm gặp ông. Có thể một số người được cảm hóa bởi lối sống khắc khổ, nhiệm nhặt của Gioan và thấy được sự thánh thiện và uy quyền trong lời giảng dạy. Cụ thể, nhiều người đã đến xin ông Gioan làm phép rửa tại sông Giodan. Thậm chí, rất đông đảo người đứng xếp hàng tại bờ sông.

Sự việc trên đã thu hút chú ý của người Do-thái, đến nỗi các nhà lãnh đạo tôn giáo, giới cầm quyền lúc đó phải cử người đến tra vấn hành vi của Gioan. Trước hết, người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai? Ông có phải là Ê-li-a không? Ông có phải là Đấng Kitô hay vị ngôn sứ nào đó không?”. Gioan khiêm tốn trả lời: “Không, tôi không phải Đấng Kitô, tôi là tiếng hô trong hoang địa, hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi”.

Kế đến, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu đến hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Gioan trả lời họ rằng: ““Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.””

2.   Suy niệm và cầu nguyện

Dấu chân nào đi qua đời tôi?

Khi chiêm ngắm hình ảnh Gioan Tẩy Giả từ trong sa mạc đi ra, ta có thể hình dung thấy một người khắc khổ, nhiệm nhặt, thiêng liêng và thánh thiện. Ông ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da. Từ sa mạc đi ra sông Giodan, có thể có những dấu chân in hằn trên cát. Những dấu chân của một ngôn sứ chính trực và khôn ngoan.

Ở đây, ta không chỉ nhìn vào dấu chân thực tế, thể lý của Gioan in hằn trên đất cát, nhưng sâu xa hơn, ta thấy được những dấu ấn in đậm trong tâm khảm dân chúng của Gioan. Thời nào cũng thế, tội lỗi và thế lực sự dữ luôn rình rập và xâm chiếm lòng người, nó khiến con người dễ khuynh chiều theo điều xấu xa, thỏa mãn, ích kỷ… Lời mời gọi ăn năn sám hối của Gioan đã khiến nhiều người được đánh động và muốn trở lại đường ngay lẽ chính với Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã dùng hình ảnh, “dấu chân” của Gioan Tẩy Giả để mời gọi, lôi kéo dân chúng về với Ngài. Thực ra, Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, nên Ngài luôn muốn tìm cách đưa con người quay về với tình yêu thương, cụ thể qua những cách thức khác nhau. Thiên Chúa có thể nói với chúng ta qua các vị hữu trách của Giáo Hội như ĐGH, GM, LM, Tu sĩ, Giáo Dân, hay những người lương dân, thậm chí là những người nghèo hèn, khốn khổ và tầm thường… mà ta gặp gỡ, tiếp xúc hằng ngày.

Thực ra, nếu nhìn cuộc đời như một con đường khởi sự từ chiếc nôi và đi đến nấm mồ, thì có lẽ mỗi người sẽ có một con đường dài ngắn, rộng hẹp, trơn tru hay gập gềnh khác nhau. Trên con đường đó, ắt hẳn sẽ có những ‘dấu chân’ đi qua, có thể nhiều, có thể ít… Con đường đời của mỗi người có thể có những ‘dấu chân’ đồng hành của cha mẹ, bạn bè, thân hữu… cùng song hành. Dù rằng những dấu chân đồng hành đó, có thể dài hay ngắn, nhưng ít ra, những dấu chân đó đã cùng ta đi một quãng đường đời.

Những dấu chân đồng hành đó, có thể mang lại cho tôi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, chẳng hạn đó là những niềm vui, nỗi buồn, nhưng an ủi, sầu khổ, những lời khích lệ, đông viên, đồng cảm… hay thậm chỉ là những lời chê bai, xoi mói, khinh thường, dèm pha, miệt thị, hạ bệ, bách hại, vu khống… tất cả đều cho tôi cảm nếm và lớn lên hơn hay vùi dập cuộc đời tôi?

Với cái nhìn Đức Tin, tôi tự hỏi: có khi nào tôi nhận ra “dấu chân của Thiên Chúa” đi qua cuộc đời tôi chưa? Dấu chân của Chúa có thể là những ân sủng, những quyết định quan trọng của cuộc đời được Chúa soi sáng, hay đó là những phép lạ nhãn tiền khi ta xém bị chết hụt mấy lần vì tai nạn giao thông, đuối nước hay một nguy biển sinh tử nào đó…? Ta thử lặng im, lắng nghe lòng mình, nhìn sâu kỹ, chậm rãi, hồi tưởng về cuốn phim cuộc đời… để nhìn xem Chúa đang đi cùng ta như thế nào? Dấu chân Ngài in đậm ra sao? Ta có thấy ngọt ngào vì điều đó không?

“Dấu chân hòa bình của Gioan”

Những năm tháng gần đây, chiến tranh giữa các quốc gia ngày càng nhiều, đặc biệt các cuộc chiến ngày càng leo thang như Nga và Ukraina đang dần tiến tới chiến tranh hạt nhân. Khi chiến tranh xảy ra, người chịu thiệt hại nhiều nhất chính là người dân, đặc biệt những người nghèo hèn, khốn khổ. Họ mất đi cuộc sống hằng ngày, thay vào đó là những cuộc tị nạn, bấp bênh, chênh vênh vì đói khổ, bệnh tật… Nỗi bất an luôn chìm ngập cõi lòng.

Như một người bị đuối nước giữa biển khơi, khi bám víu vào được chiếc phao, dù chỉ nhỏ nhoi, có lẽ họ sẽ rất vui mừng và hạnh phúc. Tôn giáo là một trong những niềm hy vọng của con người, dù rằng Karl Marx nói: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh về bề dày, bề sâu, sự quan trọng của tôn giáo đối với đời sống tâm linh con người.

Dân Do Thái năm xưa đã sống trong cảnh khổ đau, cùng khốn bởi đế quốc La Mã đô hộ, họ dường như đã mất tự do, bất an…và rất mong chờ “Thái Tử Hòa Binh"[1] đến giải thoát chúng sinh. Những hình ảnh, dấu chân của Gioan Tẩy Giả là những niềm hy vọng và hòa bình cho dân chúng. “Dấu chân hòa bình” ấy đã đem lại ánh sáng hy vọng cho nhiều người.

Thời nay cũng thế, tại VN trong những tháng ngày vừa qua, hiện tượng thầy Thích Minh Tuệ cũng là một dấu chứng khiến nhiều người suy nghĩ và phản tỉnh. Tại sao nhiều người lại tìm đến, đi theo, ngưỡng mộ, phục bái thầy MT như vậy? Giữa xã hội đầy những tha hóa, đời tu tục hóa, một vị tu sĩ xuất hiện, sống khó nghèo, khiêm hạ, từ bi, hỉ xả… thầy MT nói: “còn duyên đi tu, có phúc đức báo hiếu mẹ cha, giờ thì mọi người là cha mẹ, là anh em… nên dù ai đánh con, dù ai chửi con thì con vẫn chúc hỉ hoan … con đi tu con cầu giải thoát, cơm hằng ngày một bữa xin ăn, áo con mặc vải lượm mọi nơi, tiền người cho con không dám nhận đâu.”

Dấu chân của Gioan Tẩy Giả, của thầy Minh Tuệ làm cho nhiều người thời xưa và thời nay cảm thấy có niềm tin yêu, hy vọng, bình an và hạnh phúc ở cuộc sống này. Có lẽ người hạnh phúc nhất khi tâm hồn họ chất chứa bình an và đong đầy hòa bình. Xin Thiên Chúa cho ta có cảm nhận thâm sâu về tình yêu Chúa qua các dấu chân bình an, hòa bình mà Ngài gửi đến với chúng ta qua những người thân yêu xung quanh. Để nhờ ơn Chúa, ta sống đời bình an nội tâm sâu xa và đem niềm vui và hòa bình đến cho mọi người.

Câu hỏi phản tỉnh:

Tôi có cảm thấy bình an và hòa bình trong tâm hồn ngày lúc này? Điều gì làm tôi bình an và đâu là điều khiến tôi bất an?

Tôi có đem bình an sâu thẳm trong tâm hồn đến cho những người xung quanh không? Tôi có gieo rắc hòa bình hay những chiến tranh, nghi kỵ, chia rẽ giữa mọi người với nhau không? Nếu có, tôi thành tâm xin Chúa tha lỗi và quyết tâm hoán cải, đổi mới đời sống hơn.

Để có được hòa bình, hạnh phúc, niềm vui trong tâm hồn, tôi rất cần tương quan mật thiết, sâu đậm với Chúa Giê-su, “Thái Tử Hòa Bình”. Xin Chúa cho ta có được tình yêu mến sâu đậm, niềm hy vọng sâu xa và một con tim sâu lắng để cùng nhịp đập yêu thương với Ngài, đem hòa bình đến cho mọi người xung quanh. Amen.        *  *  *



[1] R. Alleluia, alleluia. The Lord will come; go out to meet him! He is the prince of peace.

Đơn Hàng Sự Sống Đời Đời (người thanh niên có nhiều của cải)

 

ĐƠN HÀNG S SNG ĐI ĐI

“Thưa Thy nhân lành! Tôi phi làm gì đ được s sng đi đi làm gia nghip” (Mc 10,17)




Tin mừng: Mc 10, 17-27

17 Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” 18 Chúa Giêsu trả lời: “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa.

19 Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”. 20 Người ấy thưa: “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.

21 Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.

22 Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

23 Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!” 24 Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”.

26 Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: “Như vậy thì ai có thể được cứu độ?” 27 Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: “Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.

 

Khung cảnh: Người thanh niên giàu có đến với Chúa Giêsu để hỏi về việc làm thế nào để có được sự sống đời đời. Sau đó là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và anh thanh niên.

Ơn xin: Xin Chúa Giêsu cho con có cảm nhận sâu xa về tình yêu mà Ngài dành cho con, Đấng vốn giàu sang phú quý nhưng đã trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo đó làm cho con nên giàu có. Xin cho con dám can đảm “chốt đơn hàng sự sống đời đời” là bước theo Chúa Giêsu khó nghèo và khiêm hạ, hầu mai sau được cùng Ngài hưởng hạnh phúc muôn đời.


 

Vài gợi ý suy niệm và cầu nguyện:

1.    Nhu Cầu Tìm Kiếm “Đơn Hàng Sự Sống Đời Đời”

-        Bối cảnh bản văn Tin Mừng trên cho thấy người thanh niên giàu sang có một nhu cầu tâm linh rất lớn. Bằng chứng là anh ta đã tìm kiếm sự sống đời đời qua việc đến trò chuyện với Chúa Giêsu, điều mà không nhiều người nghĩ đến thậm chí là các môn đệ. Trong các nhu cầu cơ bản của con người, nhu cầu tâm linh và thiêng liêng có thể được cho là cao nhất. Bởi lẽ, khi được an toàn bởi sức khỏe, nhu cầu vật chất, tương quan, vị thế… con người dần tìm đến những nhu cầu tâm linh, siêu nhiên hơn.

-        Dĩ nhiên, người thanh niên giàu sang này, trước đó đã có niềm tin sâu xa về một sự sống hạnh phúc đời đời, cho nên anh đã tuân giữ Mười Điều Răn từ thuở nhỏ (Mc 10, 19-20), thế nhưng tại sao lòng anh vẫn khắc khoải và bất an? Bởi lẽ giữ luật Thiên Chúa vẫn chưa đủ, còn điều gì khác khiến anh ta bận lòng. Đối diện với một người trẻ giữ các giới răn từ nhỏ, Chúa Giêsu đem lòng quý mến và nói với anh: “Anh chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và anh sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta” c.21. Thế nhưng khi nghe những lời đó, anh thanh niên với nét mặt buồn rầu và quay lưng bỏ đi, bởi vì anh ta có nhiều của cải.

-        Nếu nhìn kỹ và nhìn sâu hơn, ta sẽ thấy kho tàng sự sống đời đời không hệ tại ở của cải vật chất và thời gian. Bởi chúng chỉ là tùy phụ, tạm bợ, tạm thời và chóng qua. Cái chính yếu là sự sống đời đời, hạnh phúc vĩnh cửu, và sâu xa hơn mọi thứ vật chất tạm thời kia đó là việc được ở với Thiên Chúa đến muôn đời. Đây chính là chiều kích sâu thẳm của đời sống đức tin, bởi lẽ nếu không đủ đức tin có lẽ người ta sẽ không dám dấn thân vào một chọn lựa mạo hiểm và đầy rủi rõ. Thực tế, người thanh niên đã từ chối lời đề nghị của Chúa Giêsu, “anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải”.

-        Của cải vật chất có lẽ là sự an toàn đối với một số người. Sở dĩ con người ngày nay đều vất vả, hối hả, chạy theo công việc, thành tích, lợi nhuận, doanh thu… tất cả cũng chỉ để có thật nhiều tiền bạc hầu chắc cuộc sống của họ ngày càng đầy đủ, sung túc, tiện nghi hơn, hoặc ít ra không phải sống trong cảnh nghèo khó, khốn cùng hay đau yếu bệnh tật mà không có tiền chữa chạy.

-        “Một đơn hàng sự sống đời đời”, sau khi đã được xem xét kỹ lưỡng, chất vấn, hỏi han, tìm hiểu, suy nghĩ và rồi không một cú “click” chuột, một lời “say yes!”, một cái gật đầu “ok” được thốt ra! Đơn hàng trên đã không được chốt, người thanh niên quay lưng bỏ đi. Tại sao anh ta mất đi cơ hội trên? Phải chăng là “giá” quá đắt để mua đơn hàng?


 

2.    Không Dám “Chốt Đơn” Vì “giá quá đắt”

-        Thật là liều lĩnh khi bỏ hết tài sản bao năm vất vả lao nhọc tìm kiếm và sở hữu, nay lại dường như mất trắng khi bố thí cho người nghèo. Thực tế, nếu phân phát của cải của mình cho người thân, bạn bè hay những người quen biết, có lẽ ta sẽ còn cơ hội để lấy lại, hay ít ra là còn nhờ cậy họ khi ta lâm cảnh cơ hàn, túng thiếu, cùng bần... Nhưng nếu bố thí hết tài sản cho người nghèo, thì một cách chung ta cũng trở nên người “vô sản”, người nghèo túng, khốn cùng. Thật là một sự mạo hiểm, một cái giá quá đắt cho việc bước theo Chúa Giêsu.

-        Giá mà có chọn lựa cho việc “bắt cá 2 tay”, một là vừa bước theo Chúa Giêsu và vừa được giữ nhiều tiền bạc, của cải? dĩ nhiên điều đó là không thể, bởi vì chính Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo hèn, thậm chí có lúc Ngài thốt lên “con Người không có chỗ gối đầu”. Thật vậy, cái chết của Ngài trên thập giá cũng không có chỗ để gối đầu. Thế nên, việc bước theo một Chúa Giêsu nghèo khó và vác thập giá là điều khó khăn với nhiều môn đệ.

-        Bởi lẽ, làm sao có thể tin rằng những việc bố thí đó sẽ là kho tàng Nước Trời mai sau? Làm thế nào để kiểm chứng, cân đo đong đếm chúng? phải chăng là chỉ có Đức Tin mà thôi! Hành trình bước theo Chúa là sự bấp bênh, chênh vênh, “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ngài.” Chẳng có gì chắc chắn và đảm bảo khi bước theo Chúa Giêsu ngoài lời hứa của Ngài là được gấp trăm ở đời sau.

-        Sức mạnh của đồng tiền là khá lớn. Có người từng nói: “dĩ thực vi tiên” hay “tiền là tiên là phật, là sức bật của lò xo, là thước đo của lòng người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng để che thân”, “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”, “tiền không phải là tất cả, nhưng không có tiền làm việc gì cũng khó”, “những thứ không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền”... Cần phân biệt giữa việc có đủ tiền và tiền dư bạc thừa. Tiền bạc không xấu tự thân, nó trở nên không tốt khi người dùng bị lệ thuộc vào nó. Bởi vì bạc tiền có đôi khi làm cho con người trở thành nô lệ. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo người môn đệ “anh em không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc được” (Lc 16,13). Dĩ nhiên, người môn đệ cần chọn lựa giữa việc tôn thờ Thiên Chúa trong tự do hoặc làm nô lệ cho tiền bạc.

-        “Đơn hàng sự sống đời đời” trên đã được một Phanxico Assisi “chốt đơn” trong một lần đi lễ ở nhà thờ. Ngài nghe được đoạn Lời Chúa trên “Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”. Phanxico đã dứt bỏ mọi sự giàu sang phú quý của gia đình, ngài cho người nghèo tất cả của cải mình và quyết tâm bước theo Chúa Giêsu để loan báo Tin Mừng Nước Trời.

-        Ngày nay, có thể Chúa vẫn đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy có tinh thần siêu thoát với tiền bạc, của cải vật chất… chúng là một trong những thứ làm cản trở bước đường trở nên trọn lành và thủ đắc sự sống đời đời. Bởi lẽ, nếu cố bám chặt vào của cải vật chất, đứng trước cái chết mọi người cũng đành phải buông bỏ, dù muốn hay không. Đạt Lai Lạt Ma có câu nói nổi tiếng: “Ra đời hai tay trắng, Lìa đời trắng hai tay, Sao mãi nhặt cho đầy, Túi đời như mây bay.”

Câu hỏi phản tỉnh:

-        Đâu là những “đơn hàng mà tôi muốn chốt với Chúa”?

-        Điều gì làm tôi phân vân, bận tâm, lưỡng lự khiến tôi không dám “say yes” với Chúa?

-        Có những thứ gì đang cản trở tôi đến gần với Chúa? Hay những gì mỗi ngày càng kéo tôi ra xa Chúa hơn?

-        Cái giá phải trả khi tôi “chốt đơn” với Chúa? Cam kết, dấn thân cho một chọn lựa là một hy sinh, quảng đại, hay là một tình yêu đáp lại tình yêu?

-        Lạy Chúa! Con đang tìm gì và tìm ai? Đâu là lý tưởng đời con, phải chăng là tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền lực… hay một cuộc sống an toàn mai hậu? Chúng là chỗ nhất trong lòng con hay là Chúa? Chúa ở chỗ nào trong những mối bận tâm hằng ngày của con? Xin ban cho con ơn hoán cải, biết tỉnh thức trước đam mê bạc tiền, biết tìm kiếm và chọn một mình Chúa mà thôi! Xin Chúa lấp đầy những ước mơ thánh thiện của con là hạnh phúc viên mãn muôn đời với Ngài. Amen.

-        Tâm sự với Chúa Giêsu với tâm tình được thúc đẩy.

-        Kết nguyện: đọc một kinh Lạy Cha thật sốt sắng.