Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

…Đi Vào Chiều Sâu Lòng Mình…

 

Một trong những nguyên nhân có thể khiến tâm hồn ta trở nên bất hạnh và bất an đó là sự lo lắng. Thực tế, sống trong thời buổi kinh tế thị trường suy thoái, với những nhu cầu tiện nghi hiện đại, áp lực tài chính của cuộc sống đã không ngừng thúc bách và đặt vấn đề về cơm áo gạo tiền cho ta. Ta phải lo toan nhiều thứ, giải quyết nhiều chuyện, sắp xếp thời gian và điều phối công việc sao cho ổn thỏa, thuận tiện nhất. Điều đó có thể tốt trong một mức độ nhất định, tuy nhiên, nếu để nỗi lo toan, lo lắng trở nên thái quá, nghĩa là nó chiếm cứ mọi suy nghĩ, bận tâm trong đầu óc, tâm hồn của ta, thì quả nhiên đó là một nỗi phiền não lớn khiến ta có thể trở nên bất an trong tâm hồn, bất nhẫn với người thân và thậm chí là bất mãn với chính mình.


Thế nhưng, khi biết tập chú, 'quay vào bên trong' để đi sâu vào tâm hồn mình, ta sẽ cảm nghiệm những điều thiêng liêng, cao quý và mới lạ, mà có thể trước đây ta chưa từng nhận ra. Từ sâu thẳm trái tim, ta thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu, Đấng luôn hiện hữu ở đó để chờ đợi và hẹn hò với ta không ngừng. Chính những cảm nghiệm thiêng liêng này, sẽ giúp ta trở nên trầm lặng hơn trước những biến cố, sự kiện vui buồn, thành công hay thất bại của cuộc sống. Bởi với cái nhìn của Chúa, mọi sự sẽ trở nên nhẹ nhàng, ý nghĩa và thiêng liêng hơn cho ta.


Nhưng trong thực tế, có đôi lần khi đối diện với những nỗi khổ niềm đau, có thể ta dễ dàng quy chụp, xét đoán, nhận định theo thiên kiến cá nhân cách chủ quan và phiến diện. Chẳng hạn, khi đứng trước một tai nạn bất ngờ nào đó, có thể ta cho rằng mình bị xui rủi, kém may mắn hoặc ngược lại, nếu thành công trong một công việc nào đó, có thể ta cho rằng nhờ biết bao nỗ lực, cố gắng, mồ hôi công sức của bản thân mà ta mới có được thành quả như vậy. Dường như, trong mọi thành công và thất bại của ta đều thiếu vắng bóng dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ, Thiên Chúa chẳng mấy liên quan đến cuộc sống của ta.


Có những lúc trong đời sống Đức Tin, dường như ta cảm thấy Thiên Chúa quá xa vời. Ta chẳng cảm nhận được sự hiện hữu và hiện diện của Ngài trong đời sống thiêng liêng thường nhật. Dĩ nhiên, ta thừa biết rằng: Thiên Chúa là Đấng cao siêu, toàn tri và toàn năng… Ngài thấu suốt mọi điều và cho phép chuyện gì xảy ra hoặc không xảy ra. Bổn phận của ta là lắng nghe và thực thi Ý muốn của Ngài. Tuy nhiên, không ít lần, tri thức, trí hiểu cũng như tầm nhìn của ta thì hạn hẹp đến mức, ta cho rằng Thiên Chúa quá ‘chậm chạm’ và dường như Ngài ‘ngây ngô’ trước những khó khăn, khổ não, phiền lụy… của ta. Ta trách Chúa rất nhiều, tại sao Ngài không can thiệp vào chuyện này của con, tại sao Chúa để con đau khổ và ra nông nỗi ngày, tại sao Chúa cứ mãi thờ ơ, và dường như ‘vô cảm’ với con…? Con mong muốn thế này, Chúa lại mong muốn thế kia; con xin Chúa làm cái này, làm cái kia, cất con khỏi sự dữ, tai ương, và ban cho con được điều này, điều nọ… thế mà, dường như Chúa chẳng đoái hoàn đến con. Con không cần Chúa nữa đâu!


Hệ quả là những tính toán cho bản thân, những bám víu vào danh-lợi-thú, hay tình cảm, lời khen tiếng chê của mọi người làm ta trở nên con người phụ thuộc, hoặc nặng hơn là trở nên tha hóa (đánh mất chính mình theo người khác). Rút cuộc, những điều chính yếu thì ta bỏ quên mà chỉ tập trung vào những điều tùy phụ của cuộc sống. Thế nhưng, khi biết quay về với chính mình để lắng nghe nội tâm cách sâu lắng, có thể ta sẽ nhận ra nhiều điều mà Thiên Chúa muốn mời gọi ta thực hiện. Phải chăng, đó là lời mời gọi ta biết yêu chuộng những gì cao quý hơn, chân thật hơn, và thiêng liêng hơn.


Chính nhờ việc quay vào bên trong lòng mình, ta sẽ cảm thấy được sự bình an sâu lắng, hạnh phúc sâu xa và niềm vui sâu đậm. Dường như những niềm vui tạm thời, những ham muốn tạm bợ và những dục vọng tạm trú nơi ta không còn bám víu và ảnh hưởng cách mạnh mẽ và chấn động tâm khảm, lay động tâm can, bấn loạn tâm trí và thao túng tâm hồn của ta như trước. Bởi vì ta sẽ biết cách chống chọi và thoát ly với những mâu thuẫn nội tâm, và càng lúc ta càng hiểu thấu chính mình hơn.


Có thể xem sự bình tâm là một lối sống giúp ta dễ dàng đặt Thiên Chúa là trọng tâm của đời sống mình mỗi ngày. Bình tâm ở đây cũng là điều mà thánh Inhaxiô thành Loyola, mời gọi không chỉ các anh em Dòng Tên và kể cả các thao viên trong Linh Thao thực hiện và sống mỗi ngày. Thực ra, bình tâm không phải là dửng dưng trước mọi biến cố của cuộc sống, hay là khái niệm ‘tùy duyên’ cách thuần túy (cái gì đến thì đến, cái gì đi thì đi, tùy thuận theo tự nhiên, tùy thuận theo thiên đạo, nhân duyên…) trong Phật giáo, nhưng đúng hơn, bình tâm là ‘đặt Chúa lên trên hết’ mọi quyết định, lựa chọn của ta.


Chính khi đặt Chúa lên trên hết, ta sẽ nhận thấy điều quan trọng nhất trong cuộc sống thường nhật không phải là làm điều mình muốn làm, thực hiện điều mình mong chờ…Nhưng là lắng nghe và thực hiện điều Thiên Chúa đã và đang mời gọi trong lòng ta. Chính những tác động thiêng liêng điều hướng ta đến những điều siêu nhiên, cao quý hơn, giúp ta trở nên bình an, hạnh phúc, vui tươi và siêu thoát hơn. Đây là kinh nghiệm thiêng liêng rất cần thiết cho đời sống nội tâm của ta.


Thật vậy, khi biết lắng nghe tâm hồn và đi vào chiều sâu nội tâm, ta sẽ cảm nhận thấy một sự sống thần linh bắt nguồn từ Ba Ngôi Thiên Chúa không ngừng chảy tràn trong ta. Dường như, Thiên Chúa có một kế hoạch cứu độ, một chương trình tình yêu dành cho ta, mà bấy lâu nay có thể ta chưa nhận ra. Bởi có nhiều lúc, ta mải mê xây đắp cuộc đời mình với những hoài bão lớn lao, dự phóng tuyệt hảo, tham vọng bất tận… Đến một lúc, ta sẽ nhận ra mọi toan tính cho riêng mình dường như là ‘vô thường’, ‘phù vân’ mà thôi!

Tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa là uyên nguyên, nguồn cội, và là sức sống đích thực cho đời sống thiêng liêng của ta. Chỉ có một điều cần thiết và quan trong nhất trong cuộc sống này là được gặp gỡ và sống kết hiệp với Thiên Chúa trong từng phút giây của ngày sống. Chính trong những tâm tình thiêng liêng này, ta nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa mới là điều quan trọng hơn là những công việc của ta, thậm chí là những công việc của Chúa. 


Thực ra, nếu là công trình của Thiên Chúa thì hãy cứ để Ngài thực hiện, nếu được Ngài mời gọi cộng tác, ta hãy vui vẻ dấn thân, quảng đại thực hiện với tất cả tình yêu mến. Bất chấp những thành công hay thất bại, kể cả trở ngại và khó khăn, kể cả những tình cảm thấp hèn, những đánh giá thị phi của người đời, hãy lo sợ trước những đổi thay của vận mệnh… (Pl 3,8), bởi ta biết Thiên Chúa không bỏ rơi ta, trái lại Người luôn đồng hành, đỡ nâng ta mọi lúc, mọi nơi.


Dĩ nhiên, đây không phải một mớ lý thuyết suông, hay một giấc mơ tuyệt đẹp, mà đây là một lẽ sống, một kinh nghiệm sống trong Thiên Chúa. Đúng hơn, đây là hoa trái của Chúa Thánh Thần nơi một tín hữu biết say mê bước theo và sống trong Đức Kitô. Bởi lẽ, một người năng sống kết hiệp mất thiết, gắn bó thâm sâu và liên lỉ với Chúa Giêsu, người đó sẽ tràn đầy sức sống thần linh, họ có cái nhìn của Chúa và mang tâm tình của Chúa. Họ có một trái tim hòa điệu với nhịp đập của Thiên Chúa, một trái tim yêu thương, tha thứ, nhân từ và bao dung với mọi người.


Minh Đức, SJ

04.6.2025

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2025

Hạnh Phúc và Khổ Đau

Đã có người định nghĩa “hạnh phúc là không có khổ đau”. Thế nhưng, sống trong kiếp người, mấy ai dám vỗ ngực xưng danh rằng mình không có khổ đau hoặc không sợ những nỗi khổ niềm đau. Dường như khổ đau và hạnh phúc đi liền với nhau như hình với bóng trong cuộc sống hiện sinh. Vậy phải chăng trong hạnh phúc luôn mang dáng dấp của khổ đau?

Dĩ nhiên, giữa việc chịu khổ và chịu đau không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Thực tế, có nhiều người rất khổ sở, vất vả để mưu sinh trong cuộc sống nhưng họ có thể cảm thấy không mấy đớn đau. Chẳng hạn, có những bậc cha mẹ chịu cựu khổ vì con cái, nhưng những nỗi khổ đó sẽ trở thành niềm vui bởi họ biết sự hy sinh, vất vả, cực nhọc của mình là vì tương tai tốt đẹp của con cái. Ngược lại, có những nỗi đau sẽ trở nên những nỗi khổ, nếu ta không đủ bản lĩnh vững vàng, tâm lý vững trãi hay một niềm tin vững chắc vào một thực tại siêu linh nào đó. Ví như, một ngày kia ta bị đau bệnh và bác sĩ khám bệnh nhận định rằng: ta đã mắc bệnh hiểm nghèo và chỉ còn sống được vài tháng ngày ít ỏi. Khi đó, nếu trong tâm thế lo sợ, bi quan, hụt hẫng và tuyệt vọng thì có thể hung tin đó là một nỗi khổ đau khủng khiếp ám ảnh đối với ta.

Tuy nhiên, khổ đau cũng có giá trị riêng của nó. Một vị minh sư đã khặng định rằng: “nếu không có khổ đau, biết đâu là hạnh phúc”. Xét ở một mức độ nào đó, nhận định này có vẻ thuyết phục và đáng để tin nhận. Chẳng hạn, khi ta bị kẹt xe dưới trời mưa tầm tã, đường xá bị ngập lụt… giữa cảnh lạnh lẽo và đói bụng đó, ta cảm thấy trân quý lúc mình ăn một tô bún hầm xương nóng hổi thơm lừng trong một ngôi nhà ấm áp, đầy tình thương. Hoặc khi bị nhức đầu đau bụng, ta mới thấy quý trọng lúc thân mình khỏe mạnh, trí óc minh mẫn… 

Câu truyện trong Kinh Thánh (Mt 24,11-13) là một ví dụ, nếu chàng rể không đến trễ thì đâu là sự khác biệt giữa những cô khờ dại và khôn ngoan? Đôi khi trong cuộc sống, những điều ‘bất như ý’, những điều không như ta mong muốn và những việc không như ta mong chờ có thể là cơ hội để ta biết quý trọng nhiều thứ và biết tiên liệu nhiều điều ngay bên cạnh mình hơn. Nhờ biết sống chậm và ý thức những giá trị thực tại đã và đang sở hữu, ta càng cảm thấy cuộc sống này càng có ý nghĩa và sống động hơn. Chẳng hạn, ta cảm thấy hạnh phúc thực sự khi ăn một bữa cơm giản đơn chỉ gồm đĩa rau muống luộc và bát cá kho nhỏ nhưng gia đình đầy ắp tiếng cười hơn là một bữa tiệc linh đình nơi nhà hàng cao cấp, với đầy món hải vị sơn hào, bao ngư tổ yến, nhưng mỗi người lại ‘cắm mặt’ vào chiếc điện thoại, vào thế giới riêng của mình, và chẳng ai muốn tương tác và đoái hoài đến nhau.

Thực ra, hạnh phúc thực sự không ở đâu xa, hạnh phúc là hiện tại, là ở nơi đây. Nếu ta hài lòng với những gì ‘mình có’ và những gì ‘mình là’ thì đó cũng là lúc ta đang tiệm cận với hạnh phúc rồi! Nếu ta biết hài lòng với ngôi nhà mình đang ở, với công việc mình đang làm, với chiếc xe mình đang chay, với điện thoại mình đang dùng, hay những người thân yêu đang bên cạnh mình, và trân quý những điều đó, thì ta đã và đang sống hạnh phúc. Đừng để đến khi vì một lý do nào đó, ngôi nhà mình đang ở bị mất đi, công việc mình đang làm bị thất bại, chiếc xe mình đang chạy bị hư hỏng, hay người thân yêu của ta rời bỏ thế giới này cách vĩnh viễn, khi đó, những nuối tiếc về việc sống cùng, sống với những thực tại, đối tượng và những người thương kia có thể đã quá muộn màng.

Để có thể làm được điều đó, thiết nghĩ cần phân biệt giữa ‘cái có’ và ‘cái là’ cũng giúp ta biết trân quý căn tính và thực tại của đời mình hơn. Trong triết học của Gabriel Marcel (1989-1973), ông có phân biệt hạn từ “BEING” và “HAVING”. Trước hết, ‘cái có’ với ‘cái là’ đôi khi khiến ta hay bị nhầm lẫn với nhau. Marcel phân biệt giữa việc tôi có đôi tay và tôi có căn nhà là hai cái tuy rằng tôi thuần túy là tôi sở hữu chúng, nhưng chúng lại hoàn toàn khác nhau. Một cái ở bên ngoài tôi và một cái ở trong tôi, nó gắn liền với cơ thể của tôi.

Chuyện kể rằng, có một Giám mục kia đi thăm mục vụ ở một dòng nữ nọ. Khi đi ngang qua nhà bếp, Đức Cha thấy một nữ tu đang tất bật nấu ăn, tuy vất vả nhưng khuôn mặt soeur ấy toát lên vẻ thánh thiện, vui tươi và bình an sâu thẳm. Đức Cha liền lên tiếng hỏi thăm: “Soeur đang làm gì ở đây vậy?”. Nữ tu kia cúi chào và niềm nở đáp lại Đức Cha bằng một câu nói dí dỏm: “việc con đang làm cũng giống như Đức Cha vậy ạ!” Đang khi, Đức cha ngạc nhiên trước câu trả lời đó, thì nữ tu mỉm cười và đáp: “dạ! con cũng như Đức Cha là những người đang tìm kiếm và thực thi Thánh Ý Chúa ngang qua việc bổn phận thôi ạ!”

Tuy câu trả lời có vẻ dí dỏm, hài hước, nhưng hàm chứa một ý nghĩa sâu xa và chiều kích thiêng liêng sâu thẳm của vị nữ tu. Đúng vậy, Đức cha đã gật đầu và đáp lại: “vâng! Soeur nói đúng, vấn đề không chỉ là DOING mà còn là BEING nữa!”. Nghĩa là không chỉ làm cái này, cái kia cái nọ, nhưng quan trọng hơn chính là sống căn tính đời mình. Căn tính của người Kitô Hữu, là một người có Chúa ở cùng, là một người bạn của Chúa Giêsu, một người sống và thi hành Ý Chúa mỗi ngày. Vậy, Giêsu có yêu cầu gì cho người bạn của Ngài? Thưa đó là: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình và vác thánh giá mỗi ngày” (Mt 16,24). Bạn của Chúa Giêsu là thế đó!

Dĩ nhiên, xét trong một mức độ nào đó, việc vác thập giá mỗi ngày không hoàn toàn đồng nghĩa với việc chịu đau khổ mỗi ngày. Tuy nhiên, thập giá và thánh giá cũng khác nhau tùy vào khả năng nhận thức và mức độ thiêng liêng của mỗi người. Có người đã nói rằng, khi có tình yêu thì thập giá trở nên thánh giá và thánh giá cũng chính là “cái giá” để cho ta nên thánh. “Cái giá” ở đây có thể được hiểu theo hai nghĩa: một là giá trị thiêng liêng, hai là giá đỡ tinh thần. Khi ý thức được như vậy, có thể người đó sẽ cảm nhận được tình yêu và hạnh phúc ngay bên mình ngang qua những thánh giá hằng ngày, và bất chấp những khổ đau, thử thách, gian nan bủa vây.

Khi đó, các câu hỏi như: bấy lâu nay tôi đang tìm kiếm điều gì? Đâu là điều quan trọng nhất trong cuộc đời tôi? Đích điểm của cuộc sống này là gì? Sẽ được giải đáp cách dễ dàng hơn nếu đặt trong tương quan tình yêu cá vị với Chúa Giêsu. Thực ra, điều quan trọng nhất trong cuộc sống này, theo các nhà tu đức thì không phải làm điều này, điều kia, điều nọ… cho bằng tìm gặp Chúa trong cuộc sống thường ngày. Nếu không gặp được Chúa, thì mọi cố gắng nỗ lực và thành công trong cuộc đời kia chẳng có nghĩa lý gì, có chăng đó là sự tô vẽ và đánh bóng bản thân giữa những hư vinh trần đời chóng qua.

Được gặp Chúa mỗi ngày đó là niềm hạnh phúc đích thực. Dĩ nhiên, không phải quá khó hoặc quá dễ dàng để có thể tìm gặp được Chúa và thực thi Ý muốn của Ngài. Bởi lẽ, tìm gặp Chúa cũng là một quá trình và tìm biết Ý Ngài cũng là một chặng đường tu tập, sống gắn bó, kết hiệp mật thiết và thâm sâu với Ngài. Tuy rằng, Chúa vẫn hằng ẩn thân nơi Nhà Tạm nhỏ bé đơn sơ, nhưng Ngài cũng là họa ảnh nơi những người nghèo khó, lầm than, khốn khổ, nơi những trẻ em nghèo trên đường phố, nơi cụ già vô gia cư, nơi chị lao công nhỏ bé hoặc nơi bác bảo vệ bên đường…hay thậm chí là những người thân quen, xóm giềng của ta. Điều quan trọng là ta có nhận ra sự hiện diện thiêng liêng và sống động của Chúa nơi họ hay không mà thôi!

Cách chung, nếu có ai đó hỏi rằng: “hạnh phúc đích thực là gì?”. Có lẽ câu trả lời không chỉ là niềm vui, hạnh phúc và bình an từ sự sống đời sau, hay Thiên Đàng vĩnh cửu mai hậu, nhưng đúng hơn đó là việc gặp gỡ Chúa hằng ngày, trong từng phút giây. Càng có thói quen sống gắn bó, kết hiệp mật thiết và thâm sâu với Chúa Giêsu ta lại càng có trực giác, nhạy bén với các dấu chỉ từ Thánh Ý Chúa. Đồng thời, càng biết quay trở về với lòng mình, đi vào chiều sâu tâm hồn, ta càng cảm thấy Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi nơi ta và muốn trao ban một sự sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Augustine đã từng có kinh nghiệm về điều này khi ngài thốt lên trong cuốn Tự Thuật: “Chúa ơi! Con biết và yêu Chúa quá muộn màng! Chúa luôn ở trong lòng con mà con lại ở ngoài Chúa!”

Xin Chúa cho con biết sống gắn bó, kết hiệp mật thiết với Ngài trong từng phút giây của cuộc sống. Nhờ đó, những nỗi khổ niêm đau kia sẽ trở nên thánh giá nhẹ nhàng để con vác trên vai cùng với Chúa. Xin cho con biết yêu mến cuộc sống hiện tại với tất cả niềm vui, bình an để con cảm nhận được hạnh phúc mà Chúa đã ban tặng cho con. Lạy Chúa là Thiên Chúa và là hạnh phúc của đời con.

Minh Đức, SJ

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

Nhiệm Màu Tình Yêu

 Nhiệm Màu Tình Yêu



Chiều Thu ngắm lá vàng rơi,

Lang thang dưới phố, mây trời theo sau.

Mùa thu quấn quýt mái đầu,

Gió lùa vạt nắng, hoa dầu xoay xoay.

Hồn theo tình ngát hương bay,

Lâng lâng nhạc khúc, đắm say vô bờ.

Giấc mơ hạnh phúc đang chờ,

Đợi người thi sĩ, dệt thơ ghép vần.

Đôi chân lê bước bụi trần,

Vầng dương soi chiếu, lúc gần lúc xa.

Nhìn vào chính bóng hình ta,

Lặng im ngẫm nghĩ, nhận ra nhiều điều.

Làm sao hiểu thấu chữ “ yêu”,

Trong ta nỗi nhớ buổi chiều mưa ngâu.

Hàn huyên đến lúc đêm thâu,

Mà sao chưa hết những câu chuyện tình.

Tình yêu đi với hy sinh,

Tình yêu đi với quên mình hiến thân.

Trong ta hữu thể cận lân,

Nhớ nhung, da diết, tình thân con người.

Nhớ ai nhớ cả nụ cười,

Bờ môi cỏ mộng, xinh tươi ngọt ngào.

Vó ngựa từng lúc dâng cao,

Tình yêu chạm khẽ, lao xao tim mình.

Đôi khi hạnh phúc lặng thinh,

Bình yên để ngắm chính mình hôm nay.

Khép lại một mối tình say,

Mật ngọt giọt đắng, men say rượu nồng.

Hỏi rằng em có nhớ không?

Bình minh rực rỡ, bên hông cửa nhà.

Nhâm nhi từng tách nước trà,

Nhìn ra ao cá, vườn cà mẹ gieo. 

Xanh xanh giàn mướp, chanh leo,

Tiếng chim rộn hót mang theo an bình.

Em ơi! Đẹp nhất quê mình,

Nhà tranh vách đất, đậm tình quê hương.

Cũ màu gốc bếp tình thương,

Nơi đây tỏa khói, mùi hương của bà.

Bà đun nồi cá kho cà,

Cơm canh rau muống, cả nhà ăn ngon.

Bà thương thằng bé nhỏ con,

Gắp cho khúc cá thật ngon, thơm lừng.

Cháu luôn cảm thấy vui mừng,

Lon ton vạt áo, sau lưng của bà.

Giờ đây bà đã đi xa,

Bà nằm lại với xa xa mây ngàn.

Bà ơi! Con nhớ vô vàn,

Mong bà hạnh phúc, bình an muôn đời.

Theo làn khói trắng về trời,

Ở bên cạnh Chúa muôn đời hiển vinh.

Thực tại về với lặng thinh,

Hoàng hôn ngả bóng, nép mình nhớ nhung.

Cánh chim mệt mỏi não nùng,

Trong ta nỗi nhớ mông lung, vô bờ.

Trách ta sau mãi hững hờ,

Vô tâm, khép kín, thờ ơ với người.

Dĩ ngôn bất khả thành lời,

Thổi hồn theo gió cuối trời thênh thang. 

Con tim thổn thức đa mang,

Chập chờn cánh bướm vàng vàng, bay bay.

Xa xăm đồi cỏ, ngọn cây,

Tình yêu đẹp nhất tháng ngày bên nhau.

Kiếp người thoáng chốc qua mau,

Nhìn lại để thấy nhiệm màu tình yêu.

Đẹp thay nhan sắc mỹ miều,

Bờ vai, mái tóc, yêu kiều dễ thương.

Bờ mi, tóc rối tơ vương,

Làm sao để sống không thương người nào?

Tình yêu vị sắc ngọt ngào,

Như cung đàn réo lên cao mây ngàn.

Bên cạnh hạnh phúc chứa chan,

Đôi khi cay đắng, hòa tan lệ sầu.

Em đi trong gió mưa ngâu,

Em đi mang cả bể dâu cuộc đời.

Bàn tay lạnh cứng rã rời,

Bâng khuâng da diết từng hơi thở này.

Tình yêu vốn dĩ trả vay,

Mấy ai hiểu thấu đắng cay cuộc tình.

Lọc lừa gian dối bên mình,

Con tim vỡ nát, lặng thinh u sầu.

Vườn hoa đêm tối mưa ngâu,

Lối vào khép kín tận sâu cõi lòng.

Chỉ còn một nỗi khát mong,

Chữa lành thương tổn, sạch trong tình tuyền. 

Đi để chữa lành, để trái tim trở nên ấm áp, đầy yêu thương giữa một kiếp người.

Này đây thanh xuân con, xin hiến dâng Ngài.


Nha Trang-Đà Lạt 2025

Minh Đức, SJ

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

Những Kỷ Niệm Về Cha Linh Hướng, Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.



Gần hai năm nay, con may mắn được cha Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. nhận giúp linh hướng. Ban đầu, con rất dè dặt và ái ngại khi có ý định nhờ cha giúp linh hướng cho mình, bởi vì con biết rằng cha đang mang trong mình cơn bạo bệnh ở giai đoạn cuối, nên sức khỏe cũng bị giới hạn từ nhiều con đau đớn dữ dội và âm ỉ kéo dài. Tuy nhiên, sau khi cầu nguyện và lắng nghe những chia sẻ từ buổi giúp tĩnh tâm tháng của cha dành cho các anh em học viên Dòng Tên. Con đã quyết định liên lạc với cha và trình bày ước muốn của mình.

Sau khi lắng nghe những chia sẻ của con, cha đã đồng ý nhận giúp linh hướng. Con vẫn nhớ như in ngày đầu tiên con gặp cha, tay bắt mặt mừng, cha niềm nở tiếp đón con cách ân cần và lịch sự, tựa như một người khách quý của cha. Con đã hỏi cha rằng: “cha ơi! đang đau bệnh nặng như vậy, cha có cảm thấy mệt khi giúp con không? Nếu cha mệt thì cha cứ nói con dừng lại và nghỉ nghơi cha nhé!”. Đáp lại, cha mỉm cười: “Không sao đâu thầy! Khi nào cha mệt cha sẽ nằm nghỉ, với lại Chúa cho cha sống ngày nào thì đó là hồng ân, là niềm vui ngày đó. Được giúp thầy, đó cũng là một ơn Chúa ban cho cha rồi!” Nói rồi, cha khẽ mỉm cười, một nụ cười toát lên niềm vui sâu xa, và hạnh phúc sâu thẳm.

Sau đó, từng bước, từng bước một, cha nhẹ nhàng cùng còn đi vào đời sống tâm linh của mình và tìm cách hướng dẫn con đi theo Thánh Ý Chúa. Cha đã dạy con cách phân định thiêng liêng trong từng hoàn cảnh của ngày sống cách kỹ lưỡng. Thậm chí, có lần hai cha con cùng ôn lại 2 bộ phân định thần loại của thánh I-nhã. Đặc biệt, cha đã đặt lại kinh nghiệm cá vị của con với Chúa Giêsu cách nghiêm túc. Bằng cách đặt những câu hỏi rất cơ bản và nền tảng, chẳng hạn như: “Tháng rồi, thầy Đức có bình an, hạnh phúc và triển nở không? Thầy có cầu nguyện được không? Tháng rồi, thầy có kinh nghiệm gì với Chúa không? Đâu là lời mời gọi của Chúa cho thầy trong thời gian qua?”

Con đã trả lời những câu hỏi trên của cha, và thậm chí còn chia sẻ cả những bối rối, lo sợ và bất an của mình. Chẳng hạn, có lần con lo lắng về sứ mạng thực tập tông đồ 2 năm tới của mình, con không biết bề trên giám tỉnh sẽ gửi mình đi đâu? Bởi con hiểu rõ về những giới hạn của mình, như sức khỏe, kỹ năng làm việc, sự tự tin, tinh thần dấn thân, nhiệt huyết tông đồ,… Sau khi lắng nghe, cha khẽ cười và đáp lại cách nhẹ nhàng: “Nếu con không phù hợp với chỗ đó, thì bề trên vẫn có thể gửi con đi chỗ khác được mà, có gì đâu mà phải lo lắng, sợ hãi! Điều quan trọng là hãy trình bày nội tâm, điểm mạnh, điểm yếu của mình, sau đó thì hãy để bề trên, thay mặt Chúa sếp đặt cho mình. Con hãy nhớ rằng: Chúa và nhà Dòng luôn muốn điều tốt nhất cho con.”

Quả thật, con đã thực hiện như lời cha dạy bảo: “vâng phục và yêu mến sứ mạng bề trên trao phó cho mình, chính là Thánh Ý Chúa” và cho đến nay, con cảm thấy sự bình an, nhiều niềm vui và hạnh phúc trong sứ vụ hiện tại mà mình đang đảm trách. Cách đây vài tháng, con chia sẻ lại kinh nghiệm thú vị này cho cha, thì cả hai cha con đều vui mừng và hạnh phúc, bởi khi vâng lời bề trên, chính Chúa sẽ làm cho ta những điều tốt đẹp và như lời Thánh Vịnh đã chép “ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (TV 126,3). Có lẽ, đó là một trong những kinh nghiệm đẹp mà con được cha giúp trong linh hướng.

Trong lần gặp cuối cùng, trước khi cha về với Chúa, có lẽ đây là những lời chăn chối chân thành, chân tình, và chân ái nhất mà cha dành cho con. Cha đã khuyên nhủ con rằng: “Đức ơi! Được sống đó là một ơn lớn lao từ Thiên Chúa rồi! Có lẽ người hạnh phúc nhất là người biết mình được Thiên Chúa yêu thương và ở cùng mỗi ngày. Vì thế, con hãy trung thành với giờ cầu nguyện sáng, xét mình trưa và tối kỹ lưỡng. Con hãy kéo dài bầu khí thiêng liêng với tâm tình cầu nguyện và tạ ơn Chúa trong toàn bộ ngày sống. Bởi lẽ, còn cầu nguyện là còn đi tu được con nhé!”

Giờ đây, đứng trước di ảnh của Cha mà lòng con xao xuyến, bồi hồi, và thương mến không nguôi. Những lời sau cuối của cha dành cho con luôn vang vọng trong tâm khảm, thôi thúc tâm can, và dâng tràn cảm xúc. Dù là anh em trong Dòng, dù cách xa bao thế hệ và tuổi tác, nhưng con cảm thấy cha luôn yêu thương, quý mến và tôn trọng con. Xin cám ơn cha với những lời khuyên nhẹ nhàng, dịu dàng, chân thành và sâu đậm dành cho con. Con cầu nguyện xin Chúa ban cho cha gia nghiệp Nước Trời, sau một đời trung thành và nhiệt tâm theo Chúa Giêsu Vác Thập Giá đến cuối đời. Con xin cảm ơn cha, một người cha, một người thầy và là một người Bạn Đường của Chúa Giêsu, đã yêu thương và dắt dìu con đi trong đời sống thiêng liêng và ơn gọi Dòng Tên.

Hv: Minh Đức, SJ

 

 


Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ

 

KHÁT PHỤC VỤ CỦA GIÊSU

Tin Mừng (Ga 13, 1-15)

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”. Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.”

Ơn Xin: Xin Chúa cho con có được cảm nhận thâm sâu về tình yêu cá vị, mà Chúa Giêsu dành cho con. Để con yêu mến Chúa hơn, và có được lòng khao khát phục vụ anh chị em mình, như chính Chúa Giêsu, vì yêu thương mà phục vụ chúng con.

Khung Cảnh: Trong một căn phòng kín đáo, nơi diễn ra bữa tiệc ly, đang khi dùng bữa, Chúa Giêsu cởi áo choàng, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu. Người tiến đến bên chân các môn đệ, cúi mình xuống, đổ nước và rửa chân cho từng người học trò của mình. Các môn đệ lúng túng, ngỡ ngàng vì không hiểu hành động của thầy Giêsu. Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của hành động trên: đó là “Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.” Thầy Giêsu đã làm gương cho các môn đệ, để các môn đệ cũng làm như Thầy, nghĩa là phục vụ anh em mình.

Phần này đặt vào booklet để mọi người đọc chung trước khi gợi điểm

Lời nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Diễn Giải Tin Mừng

Chỉ có một mình thánh Gioan thuật lại bối cảnh Chúa Giêsu (CG) rửa chân cho các môn đệ. Khi biết mình sắp lìa bỏ thế gian để về cùng Chúa Cha, CG có rất nhiều khao khát, thao thức và trăn trối cho các môn đệ. Có lần CG đã thốt lên “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Dĩ nhiên, ‘phép rửa’ mà CG đề cập ở đây được hiểu là cuộc thương khó mà Ngài sắp phải vượt qua. Nhưng trước khi đi vào cuộc khổ nạn, CG đã bày tỏ tình yêu thương các môn đệ qua cách phục vụ họ. Ngài khiêm nhường cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly.

Cụ thể, trong chương 13 của Tin Mừng này, thánh Gioan khéo léo lồng ghép những chi tiết và câu nói rất có ý nghĩa. Chẳng hạn như: “Ngài yêu thương họ đến cùng”àThầy Giêsu biểu lộ tình thương bằng hành động cụ thể cho các môn đệ; “các con cũng phải làm việc này cho nhau” àhành vi nêu gương rửa chân cho các môn đệ của Chúa Giêsu là bài học khiêm nhu phục vụ. Bởi lẽ, “dấu hiệu người ta nhận biết, anh em là môn đệ Thầy, đó là hãy yêu thương nhau” à yêu thương phục vụ là “điều răn mới” mà thầy Giêsu muốn người môn đệ khắc cốt ghi tâm. Ở đây, chúng ta sẽ suy niệm sâu kỹ hơn về tình yêu thương được thể hiện qua thái độ: Khao khát phục vụ.


 

Suy niệm và cầu nguyện

Khao Khát Phục Vụ Trong Tình Yêu Thương

Ta hãy thử cảm nhận tình thương của CG dành cho các môn đệ. Thánh Gioan thuật lại rằng: “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình…và đã yêu thương đến cùng”. Thật vậy, tâm thế của một người sắp đi xa, họ thường chu đáo, quan tâm, lo lắng cho người ở lại, nhất là những người mình yêu thương. Một người mẹ sắp đi xa, còn làm được gì cho con cái thì bà tận dụng thời gian còn lại để làm, như quét dọn phòng ốc, vá chiếc áo quần, chuẩn bị đồ ăn trong tủ lạnh, thuốc men bên giường của con… và lặp đi lặp lại những lời dặn dò kỹ lưỡng…

Chúa Giêsu cũng đã căn dặn các môn đệ rất nhiều điều, nhưng có lẽ điều quan trọng mà Ngài nhấn mạnh nhất trong bữa tiệc ly đó là: “hãy yêu thương nhau và phục vụ lẫn nhau”. Đứng trước hành vi và thái độ khiêm nhường cúi xuống phục vụ của Chúa Giêsu, các môn đệ không khỏi ngỡ ngàng và bối rối. Bởi lẽ, trong tâm thức của họ vẫn còn những ước mơ vinh hoa, quyền lực và tự phụ. Họ vẫn dò xét xem ai là người làm lớn giữa anh em với nhau? Khi nào thì thầy Giêsu sẽ khôi phục vương quốc Israel và ai sẽ được ngồi bên tả bên hữu Thầy trong vinh quang…?

Đi sâu vào ánh mắt và nội tâm của CG, ta thấy hình ảnh một Đấng Messia cúi xuống rửa chân như người tôi tớ phục vụ, có lẽ đã trái ngược với suy nghĩ của nhiều người trong các môn đệ. “Chúa mà rửa chân cho con sao? Không đời nào con chịu đâu?” Ánh mắt nhìn của CG vào các môn đệ và thốt lên: “"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy", và kết luận của Ngài là: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” Chúa Giêsu đã nói và đã thực hiện điều đó bằng hành động cụ thể, đó là cúi xuống phục vụ anh em mình.

Có lẽ, niềm khao khát phục vụ của Chúa Giêsu rất mạnh mẽ. “KHÁT” ở đây không chỉ là động từ chỉ việc khát nước, nhưng chính là khao khát phục vụ anh em trong tình yêu thương, và để anh em học theo hành vi yêu thương đó mà phục vụ lẫn nhau. Thật vậy, nếu phục vụ mà không có tình yêu thương tựa như “thanh la phèng phèng, chũm chọe, xoang xoảng…”, người ta dễ trở thành người thợ làm mướn, làm công ăn lương…hoặc thậm tệ hơn, như một người nô lệ vì sợ hãi mà phục vụ chủ mình. Dĩ nhiên, CG đã làm công việc như người nô lệ là rửa chân cho chủ, nhưng thái độ và hành vi của CG được xuất phát từ tình yêu tự hiến.

Đỉnh cao của tình yêu tự hiến là hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu thương. Thật vậy, CG đã “đến trần gian không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tình yêu tự hiến thể hiện qua thái độ khiêm nhường phục vụ, xóa hủy mình ra không, hy sinh cả mạng sống mình cho người mình yêu. Khi đọc đoạn thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi cho tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta mới thấy CG yêu thương chúng ta đến mức nào: “Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.” (Pl 2,6-11).

Yêu là trao ban, là hy sinh, là bỏ mình, là phục vụ lẫn nhau. Thật vậy, một trong các đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu.

Hình ảnh của CG KHÁT yêu thương và KHÁT phục vụ, tựa như cây nến chịu tan chảy chính mình để chiếu sáng cho mọi người. Cũng thế, nếu không chịu hủy mình, thiệt thân và hy sinh, ta không thể nào phục vụ anh chị em mình được. Chẳng hạn, muốn đi làm từ thiện ta phải hy sinh không chỉ tiền bạc mà còn cả thời gian công sức và tâm huyết. Muốn tham gia một hội đoàn (ca đoàn, hội hiền mẫu, gia trưởng, thiếu nhi TT…), ta phải hòa mình, hòa đồng, hòa nhã với mọi người, nếu muốn cho bầu khí cộng đoàn được bình an, hiệp nhất, mỗi người phải từ bỏ cái tôi, ý riêng nhiều hơn, dẹp bỏ tính tự ái, hơn thua, ghen tị, chỉ trích, xoi mói, dèm pha, khinh thị… Thậm chí, nếu tâm ta có đủ tình yêu thương, thì những lỗi lầm, thiếu xót của người khác đối với ta chỉ tựa như nắm muối nhỏ bỏ vào biển sông mênh mông, chẳng hề thấy mặn mà, chua chát gì cả.

Nhìn vào gương mẹ Têrêsa Calcutta, ta thấy mẹ dành cả đời để cúi mình xuống phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, què quặt, đui mù, ghẻ lở… Hay như ĐTC Phanxio, từ khi nhận chức Giáo Hoàng (2013-nay), ngài luôn tổ chức thánh lễ tiệc ly ở trong các nhà tù, thăm viếng, ủi an và cúi mình xuống rửa chân cho những người tu tội đó. Đã không ít người ôm chặt lấy ĐTC mà khóc lóc, mà vui sướng và cảm động, vị họ thấy mình được tôn trọng và yêu thương. Tuy hành động nhỏ bé, nhưng với tình yêu lớn lao, có thể ĐTC đã gieo niềm tin yêu, hy vọng vào tâm hồn những tù nhân đã bị tổn thương, đau khổ, và thiếu vắng tình yêu.

Câu hỏi phản tỉnh:

-            Có bao giờ ta thốt lên lời nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho con chỉ biết khao khát một mình Chúa”?

-            Tôi có cảm nhận về việc được TC yêu thương và chăm sóc không? Như thế nào?

-            Đâu là những lời mời gọi Chúa dành cho tôi trong việc yêu thương và phục vụ anh chị em mình?

-            Tôi có cảm thấy xấu hổ, mất công, mệt mỏi khi phục vụ anh chị em mình không? Động lực nào thúc đẩy tôi phục vụ anh chị em mình? Nếu được chọn lựa một việc nào đó để phục vụ anh chị em, tôi sẽ chọn lựa việc nào, cụ thể ra sao?

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Ơn Gọi Của GIa-kêu (TTCT 3.2025 Quay Xe)

 

GIA-KÊU “QUAY XE”



Lời Chúa: Lc 19, 1-10

Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.

Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”.

Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.

Khung cảnh: Hãy mường tượng khung cảnh thành Giêricô, nơi có đám đông lũ lượt đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó, Giakêu nghe người ta nói nhiều về Đức Giêsu, nhân vật tốt lành, giàu tình thương, uy tín, thiêng liêng. Chính khi ‘tò mò’ và để ý đến những điều thiêng liêng, cao quý… Giakêu đã tìm cách để gặp gỡ Giêsu, nhưng vì đám người đông và mình thấp bé, nên ông gặp nhiều khó khăn, cản trở; nhưng thay vì bỏ cuộc, Giakêu đã có sáng kiến trèo lên cây sung để tiện quan sát Giêsu từ đàng xa và từ trên cao. Chúa Giêsu đi ngang qua và thấy Giakêu ở trên cây, Chúa nói chuyện và vào thăm nhà ông. Được gặp Chúa Giêsu, cuộc đời Giakêu như bước sang một trang sử mới, đó là được ơn cứu độ.

Ơn Xin: Xin cho con có tấm lòng khao khát tìm gặp Chúa để được biến đổi và dám can đảm “quay xe” với con người cũ, sống con người mới trong tình yêu Chúa và tha nhân hơn.

Diễn giải Tin Mừng:

Thánh Luca là tác giả duy nhất thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Vậy Giakêu là ai? Không những là người thu thuế mà Giakêu là người đứng đầu những kẻ thu thuế (Tổng giám đốc cục thuế) và là người giàu có. Thông thường, người thu thuế thời Chúa Giêsu đều là người giàu có, vì của cải họ kiếm được thường là do gian lận. Họ bị người dân căm ghét, vì tiền thu thuế phải nộp cho ngoại bang là đế quốc Rôma. Rất nhiều trường hợp trong Tin Mừng cho thấy sự khinh bỉ của người dân đối với những người hành nghề thu thuế. Những người này cũng được đồng hoá với các tội nhân, như lời xầm xì của dân chúng: “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Thánh Luca không nói rõ Chúa Giêsu lưu lại ở nhà ông Giakêu bao lâu, nhưng vào thời đi lại khó khăn, chắc hẳn thời gian Chúa viếng thăm không chỉ trong chốc lát. Ông Giakêu, một người thấp bé về vóc dáng, nhưng lại thông minh về trí tuệ, và tha thiết về ước vọng muốn làm lại cuộc đời. Ông muốn gặp Chúa. Vì vóc dáng khiêm tốn của mình, ông đã trèo lên một cây sung để nhìn Chúa cho rõ.

Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu đã làm cho cuộc đời ông Giakêu sang trang mới. Trước những dị nghị của đám người đang ghen tức và bình phẩm, ông quả quyết tuyên bố sẽ canh tân bản thân. Ông nhận ra những lỗi lầm do việc gian lận, và nay ông hứa sẽ đền gấp bốn. Ông cũng sẵn sàng chia sẻ phần nửa tài sản cho người nghèo. Cuộc đời của ông Giakêu đã hoàn toàn đổi mới. Ông tìm thấy niềm vui và bình an khi sám hối và chia sẻ.

Gợi ý suy niệm và cầu nguyện:

1.     Cú Quay Xe Của Giakêu về Với Giá Trị Cốt Lõi

Hãy thử hình dung, Giakêu đứng đầu chế độ thu thuế thời đế quốc Roma để đô hộ dân Do Thái. Ắt hẳn ông là người giàu có, tài năng và đầy danh vọng. Tuy nhiên, trong lòng ông có thể vẫn chưa được bình an sâu lắng và hạnh phúc đích thực, bởi vì đời sống nội tâm của ông thường bị dằn vặt, tra vấn trước những lời chỉ trích, đàm tiếu, soi mói, hạ bệ, khinh thị...của mọi người. Hay sâu xa hơn, Giakêu muốn tìm kiếm một giá trị cao quý, bền vững và thiêng liêng hơn. Đó là một giá trị cốt lõi mang tính siêu việt và siêu nhiên hơn những gì là vô thường và tầm thường mà ông đang nắm giữ.

Nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua nhà mình, Giakêu tìm cách để nhìn xem Giêsu là người như thế nào? Dĩ nhiên, trước đó có thể Giakêu đã nghe biết Giêsu là người công chính, thánh thiện và giàu lòng thương xót khi chữa lành bệnh tật, yêu thương người nghèo hèn khốn khổ, rao giảng Lời Chúa, sự sống Nước Trời… Thế nên, Giakêu được ấn tượng bởi hình ảnh nhân hậu và từ bi của Giêsu và ông tìm cách gặp Người.

Thực tế, ta thấy Giakêu phải từ bỏ mình nhiều lắm, khi là một ‘giám đốc cục thuế’ với danh tiếng và địa vị cao, mà lại phải trèo lên cây sung như một đứa trẻ con và làm một việc như ‘trò hề’ vậy. Hơn nữa, là một người không còn trẻ mà lại trèo lên cao sẽ khá nguy hiểm đến tính mạng, chưa kể nhiều khi có côn trùng, rắn rết, muỗi bọ, kiến, ong, bọ, sâu… bò vào người, thậm chí dễ dàng bị trầy xước da thịt và dơ bẩn quần áo. Thế nhưng, vượt qua những rào cản đó, thậm chí cả về thể lý nhỏ bé, tâm lý bị coi thường, …với lòng can đảm và khát khao tìm gặp Chúa Giêsu, Giakêu đã được như ý sở nguyện, Chúa đến thăm ông.

Hãy thử hình dung khung cảnh Giêsu ngước nhìn lên Giakêu nhỏ nhắn đang run rẩy ở trên cây và hằng trăm con mắt nhìn lên ông, có lẽ ông sẽ đỏ mặt và vô cùng lúng túng. Tuy nhiên, ánh mắt nhân từ của Giêsu đã đụng chạm vào đôi mắt thẳm sâu đầy khao khát hướng thiện của Giakêu. Dường như Giêsu đã đụng chạm đến chiều sâu thầm kín của Giakêu, khiến ông có thể hết sức cảm động và hạnh phúc đến rơi lệ khi được Chúa yêu thương và quan tâm. Ở đây, ta thấy Thiên Chúa luôn đi bước trước để tìm kiếm và gặp gỡ con người. Bởi vì, Thiên Chúa luôn thấu suốt tâm hồn, tấm lòng của chúng ta. Chỉ cần ta có khao khát tìm gặp Chúa, chắc chắn Người sẽ không để ta phụ lòng.

Thật vậy, Thiên Chúa đã hạ mình xuống để đi tìm kiếm con người, nay Chúa lại ngước mắt nhìn con người. Ánh mắt của Giêsu và ánh mắt của Giakêu đã gặp nhau. Ánh mắt Chúa đã thuyết phục ông. Đáp lại, ông “vội vàng tụt xuống” và mừng rỡ đón rước Người. Chúng ta tưởng tượng thấy một Giakêu rất vui vì được Chúa chủ động đề nghị đến thăm nhà ông. Ông vốn mặc cảm trước ánh mắt của người đời, chỉ mong lén nhìn thấy Chúa, thì nay, ánh mắt của Thiên Chúa lại tìm kiếm ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa đã xoá đi mọi khoảng cách. Đối với Chúa Giêsu, trước mặt Người không còn là thu thuế hay biệt phái, không còn là người giàu hay nghèo, mà là con cháu tổ phụ Abraham. Con cháu Abraham tức là dòng dõi những kẻ tin. Nhờ lòng tin mà ông được cứu rỗi.

Càng suy nghĩ kỹ, ta càng thấy Giakêu đã có một cuộc “quay xe” nghiêm túc với Thiên Chúa để chọn lựa những giá trị cốt lõi cho cuộc đời mình đó là ơn cứu độ, sự sống đời đời. Dĩ nhiên, cuộc “quay xe” của Giakêu sẽ gặp không ít những khó khăn, trắc trở, và gian nan. Bởi ông sẽ phải từ bỏ cuộc sống sung túc, giàu sang, tiện nghi và thoải mái, thay vào đó là sự bấp bênh, và nghiêm túc hơn với lề luật Chúa. Thế nên, bất cứ cuộc “quay xe”, “trở lại” và “trở về cùng với Chúa” đều phải từ bỏ một số điều nào đó.

Reflections:

-        Đâu là những giá trị cốt lõi trong đời sống của tôi? Phải chăng là nhiều tiền bạc, danh vọng và địa vị cao? Hay là đời sống thân mật với Thiên Chúa? Xây đắp giá trị tình thương và lòng nhân ái?

-        Điều gì làm cản vướng tôi “quay xe” về với Thiên Chúa? Phải chăng là bận rộn của việc kiếm tìm cơm áo, gạo tiền, hay những tiện nghi của thời hiện đại… Khiến tôi gặp nhiều khó khăn để đến với Thiên Chúa? Trong mùa Chay Thánh này, tôi sẽ “từ bỏ” những điều gì để có thể “quay xe” về với Thiên Chúa?

2.     Kinh Nghiệm Gặp Gỡ với một Thiên Chúa thứ tha

Trong cuốn sách “Thực Hành Linh Hướng” của cha William A. Barry và William J. Connolly đã viết rằng: “Để hướng dẫn người khác trên đường thiêng liêng, trước hết cần hỏi họ kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa, chẳng hạn: Thiên Chúa là ai đối với bạn và ngược lại, bạn là ai đối với Ngài?” Thực tế, Giakêu đã có một kinh nghiệm cá vị với Chúa Giêsu, trong đó, ông cảm thấy mình được Thiên Chúa quan tâm, yêu thương và tha thứ tội lỗi. Thậm chí, Thiên Chúa còn ban ơn cứu độ cho ông “hôm nay, ơn cứu độ đến trên nhà này.”

Chính kinh nghiệm cá vị về tình yêu Thiên Chúa đã làm cho Giakêu được biến đổi, ‘hoàn lương’, sám hối (hoàn trả gấp 4) và hướng thiện hơn. Giakêu đã trở nên công chính và được ơn cứu độ.

Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá huỷ tất cả mọi sự, và mất tất cả.

Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng Shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, quì xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau:

“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Mọi tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài: Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.

Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu.

Refections:

-        Trên đây là kinh nghiệm của Harold Hughes về Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa ông. Vậy tự vấn chính mình, có lần nào ta có một kinh nghiệm về việc Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa chính mình chưa?

-        Rất nhiều lần Chúa đứng trước cửa lòng ta và gõ cửa, hay ngước nhìn lên ta như ánh mắt nhìn Giakêu, nhưng có thể ta đã không mở ra đón tiếp Giêsu đến thăm?

-        Xin Chúa giúp con xây dựng tương quan tình thân với Ngài, dám dành giờ cho Ngài.

 

 

 

 

 

 

Kinh Manificat

 

Manificat, Cùng Đức Maria đếm những ân ban

 




Ơn Xin: Xin Thiên Chúa giúp con nhìn lại một năm qua, để nhận ra những ân sủng mà Chúa đã ban cho con, để con biết sống tâm tình tạ ơn Ngài mỗi ngày. Trong năm mới này, xin bàn tay Chúa nắm lấy tay con và dẫn dắt trên những nẻo đường mà Chúa muốn con đi.

Bối cảnh bản văn Tin Mừng.

Sau khi được sứ thần Gabriel truyền tin: người chị họ lớn tuổi Elizabeth đang mang thai, mẹ Maria liền vội vã lên đường đi thăm và chăm sóc người chị họ đang trong thời kỳ thai nghén và chuẩn bị sinh con. Theo lời truyền tụng từ thế kỷ thứ 5, gia đình Giacaria ở triền núi, trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem 7 cây số về phía tây. Đường đi từ Nazareth đến Ain Karim trên đồi, cách Giêrusalem 6 km và phải mất 3-4 ngày đường để di chuyển (cách Nazaret khoảng 160 km). Do đó, chắc hẳn cuộc hành trình của cô Maria lên miền núi không tránh được những mệt nhọc vất vả. Thế nhưng, dù đường xa vạn dặm, rừng núi trùng điệp, mẹ Maria vẫn hăng hái, hân hoan lên đường. Vừa gặp mẹ Maria, bà Elisabeth lớn tiếng hô lên: “bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến viếng thăm…”. Lúc đó, được đầy tràn Thánh Thần, trong tâm tình tạ ơn Chúa, Mẹ Maria cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…”

Lectio Divina: Tin mừng: Lc 1, 46-56

46 Bấy giờ bà Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47
 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
55
 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.


 

1.     Chiêm Niệm, ngợi khen và tạ ơn Chúa

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi”. Đây là lời tri ân cảm mến, ngợi khen tán dương Thiên Chúa của mẹ Maria khi gặp bà Elisabeth. Lời kinh Manificat như lời tạ ơn Thiên Chúa bay cao giữa muôn trung núi non, làm rạng danh Thiên Chúa với công trình hùng vĩ bao la mà Người đã thực hiện trên cuộc đời mẹ Maria. Công trình của Thiên Chúa thật mới mẻ và lạ lùng, bởi chuyện đó trước giờ chưa từng xảy ra, “Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng con người”. Dường như, thời gian như ngừng đọng, trái đất như ngừng quay để lắng nghe lời thốt lên của Đấng Đầy Ân Sủng và Được Thiên Chúa Ở Cùng: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Bản văn KT mô tả lời Đức Mẹ với danh từ “δούλη” (doule) vừa có nghĩa là “nữ phục vụ”, vừa có nghĩa là “nữ nô lệ”. Đây là một sự tương phản khi Thiên Chúa hùng vĩ, cao sang trên chín tầng trời, còn mẹ Maria chỉ nhận mình là nữ tì hèn mọn, mà Chúa đã đoái thương nhìn tới.

Chính sự chênh lệch địa vị này làm cho mẹ Maria cảm thấy tình thương và vinh dự mà Thiên Chúa ưu ái, ban tặng cho mẹ lớn lao dường nào. Ơn huệ lớn lao đến nỗi người chị họ phải “lớn tiếng kêu lên: bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến viếng thăm.” Bà Elizabeth cũng nhận ra những phúc lành mà Chúa tặng ban cho người em họ. Không phải chỉ có người chị họ khen mẹ Maria rằng: “em thật có phúc” trong lúc biến cố viếng thăm, nhưng mà “từ nay muôn thế hệ sẽ xem rằng tôi có phúc” (Lc 1,48). Tất cả là vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả. Những điều cao cả có thể là những điều mà sứ thần đã đề cập đến trong biến cố truyền tin. Cao cả nhất là trở thành “Thân Mẫu của Đức Chúa”.

“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! (c. 49)” Mẹ Maria đã chiêm ngắm cuộc đời mình để thấy việc Thiên Chúa làm trên cuộc đời mẹ, thật lạ lùng! Một bầu khí thiêng liêng, đan xen với cảm xúc hân hoan, sướng vui, hạnh phúc nơi mẹ Maria. Mẹ không quy hướng mọi phúc vinh đó về mình, nhưng quy về Thiên Chúa, “danh Người thật chí thánh, chí tôn.” à Nhìn lại một năm qua, ta tự hỏi đâu là những ơn lành, phúc lộc mà Thiên Chúa ban cho tôi? Mọi phúc vinh đó là do chính khả năng, sức lực phấn đấu của tôi hay là ơn Chúa ban? Tôi quy hướng mọi thành công và thất bại về chính mình hay về Thiên Chúa? Hay cả hai?

“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (c. 50)” Trong sách Châm Ngôn (9,10) đã viết: “kính sợ Chúa là đầu mối của sự không ngoan”. Thật vậy, những kẻ kiêu căng, quyền thế thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ, Người nâng cao những kẻ khiêm nhường, kính sợ Chúa. Nhìn lại chính mình, có khi nào ta chẳng cảm thấy “kính sợ Chúa”, điển hình như việc phạm tội cố hữu nào đó, dù biết là điều không đẹp lòng Chúa, nhưng ta vẫn cứ thích làm! Chẳng hạn như: nói hành nói xấu, ham mê danh, dục vọng, lười nguyện gẫm kinh hạt, cầu nguyện với Chúa…?

Kế đến, Mẹ Maria tiếp tục diễn tả về tình yêu và lòng thương xót của Chúa như: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đây dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”

Mẹ đã nhìn lại lịch sử cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại, cụ thể là dân Israel, từ thời tổ phụ Apraham cho đến nay. Tình thương Chúa luôn dạt dào, bao phủ mặt đất, qua bao thế hệ, những ân tình của Chúa luôn vạn đại thiên thu. Thật vậy, chỉ khi nhìn lại những chặng đường đã qua, ta có thể dễ dàng nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trong tâm tình tri ân, cảm mến. Đức Giáo Hoàng Phanxico đã từng nói: “người hạnh phúc nhất là người biết mình được TC yêu thương và biết ơn là một trong những tâm tình khiến ta sống hạnh phúc trong tình nghĩa với Thiên Chúa.”

Hy vọng niềm vui ơn cứu độ sẽ đến với nhân loại chúng ta hôm nay, trước tiên cần khởi sự từ chính bản thân mỗi người. Nhìn lại đời mình, cụ thể một năm qua, để thấy những ơn lành Chúa ban trên cuộc đời mình. Ơn thường sủng và ơn đặc sủng. Chẳng hạn như: Giữa thế giới chiến tranh loạn lạc, nhiều người sống trong cảnh tị nạn, màn trời chiếu đất, đói khát cơm bánh, nước non, bệnh tật… Ta có ngôi nhà ấm cúng, bữa ăn ngon, những tiện nghi tiêu xài hằng ngày… Đó chẳng phải là ơn thường sủng mà Chúa ban cho ta hay sao?

Thuở thơ bé, có thể ta thường dạo chơi dưới cơn mưa, hay đưa đôi bàn tay để hứng nước mưa từ mái hiên nhà, những hạt mưa tí tách rơi, đua nhau nhảy múa trên sân, trên đôi bàn tay của ta. Những giọt nước mưa tràn trề, chan chứa… Cũng thế, ân sủng Chúa dạt dào như mưa như mưa, chỉ có điều là lòng ta có đủ rộng để đong đầy và chất chứa những hồng ân đó hay không mà thôi! Không biết vì đôi tay của ta quá lớn hay ơn Chúa quá ít mà có thể tôi chưa bao giờ cảm thấy đầy đủ và no thỏa để nói lên lời tạ ơn?

Câu chuyện biết ơn: Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu cũng tìm đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói: “Cảm ơn dòng suối nhỏ nhé”.

Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ liền hỏi: “Sao cháu lại cười?” Đứa cháu trả lời: “Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối chứ? Nó có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông”.

Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Dòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong cánh rừng. Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo với đứa cháu: “Thế đấy, dòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết ơn dòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ. Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không?”

Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rãi bảo cháu: “Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành chó sói”.

Lạy Chúa! Con xin tạ ơn Chúa vì chúng con có được của ăn trong một thế giới còn nhiều người phải đói khát, chúng con có được niềm tin trong một thế giới con nhiều người phải sợ hãi, chúng con có được tình bạn trong một thế giới còn nhiều người phải lẽ loi. Chúng con xin tạ ơn Chúa vì tất cả những ơn lành mà Chúa ban! Có những ơn chúng con thấy được và cả những ơn chúng con chưa nhận ra. Noi gương Mẹ Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Xin cho chúng con biết ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước ơn lành của Thiên Chúa và can đảm quy hướng tất cả mọi hồng ân về chính Chúa, để chúng con biết sống trong tâm tình tạ ơn và yếu mến Chúa hơn mỗi ngày. Amen

 

 

 

2.     Tạ ơn Chúa và dấn bước lên đường gặp gỡ tha nhân

Khi Mẹ Maria gặp được Chúa, có Chúa trong lòng, và nhận ra những ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa tặng ban, Mẹ Maria không chỉ giữ cho riêng mình, nhưng hân hoan, hăng hái “lên đường hành hương” để “gặp gỡ tha nhân”, đây chính là “Niềm Vui Tin Mừng” của Mẹ.

Mẹ Maria đã “ra khỏi mình để gặp gỡ” người chị họ già yếu, mang nặng đẻ đâu và Mẹ bất chấp mọi nguy hiểm, nhọc mệt, gian nan, khó khăn…Chỉ vì tình yêu và muốn đem Chúa đến cho chị họ. Có lẽ, Mẹ tin rằng có Chúa cùng đồng hành, chẳng có chi nguy biến. Chính Đức Giáo Hoàng Phaolo VI đã nói: “Đức Maria là người môn đề đầu tiên và trọn hảo nhất của Đức Ki-tô và trọn hảo nhất về mặt đức tin.” Apraham là cha của những kẻ tin, dù ông được có lời hứa “đất và dân”, còn Mẹ Maria chẳng có lời hứa nào khác ngoài niềm tin của Mẹ là đặt mình trong tay Thiên Chúa.

 Ngày nay, con người thường có xu hướng muốn thu mình lại trong vùng an toàn, sống với chiếc điện thoại để nhìn cả thế giới trong căn phòng nhỏ bé của mình. Bước ra ngoài vùng an toàn, chắc hẳn sẽ có nhiều hiểm nguy, ra đường có thể dễ gặp tai nạn giao thông, gặp người mình quen đi chơi, ăn uống có thể tốn kém, nói chuyện với bạn bè có thể gặp bất đồng quan điểm, nghĩ tiêu cực về nhau… Có lẽ, chọn lối sống an phận thủ thường sẽ dễ dàng hơn việc giao kết, liên lạc và giữ tương quan với nhiều người, đặc biệt là những người mình không ưa thích, hoặc họ có địa vị thấp kém, nghèo hèn, quê mùa, dốt nát…

Tóm lại, chỉ khi ta gặp được Chúa, thấy được ân sủng Người ban, lòng tràn đầy sướng vui, hạnh phúc… ta mới can đảm, tin tưởng nơi bàn tay Chúa mà gieo bước lên đường, chia sẻ niềm vui Tin Mừng cứu độ đến với mọi người. Có thể đó là một cuộc thăm viếng với lời khích lệ, ủi an, như Mẹ Maria đển để vỗ về, an ủi nỗi tủi hổ mà bà Elizabeth đã gánh chịu bao năm qua vì vô sinh hiếm muộn, bởi miệng lưỡi người đời cho là vô phúc.

Hơn nữa, mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, cao trọng tựa như “Hoàng Thái Hậu”, nhưng Mẹ Maria vẫn khiêm nhường và cúi mình để phục vụ người chị họ, chứ không phải được phục vụ. Đây là tấm gương tuyệt diệu mà người “có Chúa ở trong lòng” mới có thể làm nên.

Nhìn lại thời gian đã qua, tôi có thấy mình tràn đầy niềm vui khi gặp được Chúa và hân hoan lên đường đem Chúa đến cho mọi người hay chưa? Đâu là điều cản trở tôi gặp được Chúa? Đâu là niềm vui thường ngày của tôi là gì? Có phải là Thiên Chúa hay không? Trong năm mới này, tôi sẽ có những dự phóng nào để đáp lại những lời gọi mời của Chúa cho cuộc đời tôi? Tôi có thể làm một hành động nhỏ là dành một số giờ cầu nguyện với Chúa, tham dự thánh lễ, cầu nguyện trước Thánh Thể, đi thăm viếng người thân, họ hàng dịp tết, thăm những người nghèo khổ và kém may mắn ở xung quanh ta...?

Lạy Chúa! Như Mẹ Maria đã gặp được Chúa, Mẹ tràn đầy niềm vui, để lên đường hành hương, gặp gỡ và giúp đỡ tha nhân. Xin cho con lòng tin mến, trên cuộc lữ hành đức tin, biết yêu mến và noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng ra khỏi mình để đến với tha nhân, gặp gỡ, phục vụ và trao ban Chúa cho họ. Amen.

Mở bài nhạc: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…