Tổng số lượt xem trang

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

Nhiệm Màu Tình Yêu

 Nhiệm Màu Tình Yêu



Chiều Thu ngắm lá vàng rơi,

Lang thang dưới phố, mây trời theo sau.

Mùa thu quấn quýt mái đầu,

Gió lùa vạt nắng, hoa dầu xoay xoay.

Hồn theo tình ngát hương bay,

Lâng lâng nhạc khúc, đắm say vô bờ.

Giấc mơ hạnh phúc đang chờ,

Đợi người thi sĩ, dệt thơ ghép vần.

Đôi chân lê bước bụi trần,

Vầng dương soi chiếu, lúc gần lúc xa.

Nhìn vào chính bóng hình ta,

Lặng im ngẫm nghĩ, nhận ra nhiều điều.

Làm sao hiểu thấu chữ “ yêu”,

Trong ta nỗi nhớ buổi chiều mưa ngâu.

Hàn huyên đến lúc đêm thâu,

Mà sao chưa hết những câu chuyện tình.

Tình yêu đi với hy sinh,

Tình yêu đi với quên mình hiến thân.

Trong ta hữu thể cận lân,

Nhớ nhung, da diết, tình thân con người.

Nhớ ai nhớ cả nụ cười,

Bờ môi cỏ mộng, xinh tươi ngọt ngào.

Vó ngựa từng lúc dâng cao,

Tình yêu chạm khẽ, lao xao tim mình.

Đôi khi hạnh phúc lặng thinh,

Bình yên để ngắm chính mình hôm nay.

Khép lại một mối tình say,

Mật ngọt giọt đắng, men say rượu nồng.

Hỏi rằng em có nhớ không?

Bình minh rực rỡ, bên hông cửa nhà.

Nhâm nhi từng tách nước trà,

Nhìn ra ao cá, vườn cà mẹ gieo. 

Xanh xanh giàn mướp, chanh leo,

Tiếng chim rộn hót mang theo an bình.

Em ơi! Đẹp nhất quê mình,

Nhà tranh vách đất, đậm tình quê hương.

Cũ màu gốc bếp tình thương,

Nơi đây tỏa khói, mùi hương của bà.

Bà đun nồi cá kho cà,

Cơm canh rau muống, cả nhà ăn ngon.

Bà thương thằng bé nhỏ con,

Gắp cho khúc cá thật ngon, thơm lừng.

Cháu luôn cảm thấy vui mừng,

Lon ton vạt áo, sau lưng của bà.

Giờ đây bà đã đi xa,

Bà nằm lại với xa xa mây ngàn.

Bà ơi! Con nhớ vô vàn,

Mong bà hạnh phúc, bình an muôn đời.

Theo làn khói trắng về trời,

Ở bên cạnh Chúa muôn đời hiển vinh.

Thực tại về với lặng thinh,

Hoàng hôn ngả bóng, nép mình nhớ nhung.

Cánh chim mệt mỏi não nùng,

Trong ta nỗi nhớ mông lung, vô bờ.

Trách ta sau mãi hững hờ,

Vô tâm, khép kín, thờ ơ với người.

Dĩ ngôn bất khả thành lời,

Thổi hồn theo gió cuối trời thênh thang. 

Con tim thổn thức đa mang,

Chập chờn cánh bướm vàng vàng, bay bay.

Xa xăm đồi cỏ, ngọn cây,

Tình yêu đẹp nhất tháng ngày bên nhau.

Kiếp người thoáng chốc qua mau,

Nhìn lại để thấy nhiệm màu tình yêu.

Đẹp thay nhan sắc mỹ miều,

Bờ vai, mái tóc, yêu kiều dễ thương.

Bờ mi, tóc rối tơ vương,

Làm sao để sống không thương người nào?

Tình yêu vị sắc ngọt ngào,

Như cung đàn réo lên cao mây ngàn.

Bên cạnh hạnh phúc chứa chan,

Đôi khi cay đắng, hòa tan lệ sầu.

Em đi trong gió mưa ngâu,

Em đi mang cả bể dâu cuộc đời.

Bàn tay lạnh cứng rã rời,

Bâng khuâng da diết từng hơi thở này.

Tình yêu vốn dĩ trả vay,

Mấy ai hiểu thấu đắng cay cuộc tình.

Lọc lừa gian dối bên mình,

Con tim vỡ nát, lặng thinh u sầu.

Vườn hoa đêm tối mưa ngâu,

Lối vào khép kín tận sâu cõi lòng.

Chỉ còn một nỗi khát mong,

Chữa lành thương tổn, sạch trong tình tuyền. 

Đi để chữa lành, để trái tim trở nên ấm áp, đầy yêu thương giữa một kiếp người.

Này đây thanh xuân con, xin hiến dâng Ngài.


Nha Trang-Đà Lạt 2025

Minh Đức, SJ

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

Những Kỷ Niệm Về Cha Linh Hướng, Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.



Gần hai năm nay, con may mắn được cha Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. nhận giúp linh hướng. Ban đầu, con rất dè dặt và ái ngại khi có ý định nhờ cha giúp linh hướng cho mình, bởi vì con biết rằng cha đang mang trong mình cơn bạo bệnh ở giai đoạn cuối, nên sức khỏe cũng bị giới hạn từ nhiều con đau đớn dữ dội và âm ỉ kéo dài. Tuy nhiên, sau khi cầu nguyện và lắng nghe những chia sẻ từ buổi giúp tĩnh tâm tháng của cha dành cho các anh em học viên Dòng Tên. Con đã quyết định liên lạc với cha và trình bày ước muốn của mình.

Sau khi lắng nghe những chia sẻ của con, cha đã đồng ý nhận giúp linh hướng. Con vẫn nhớ như in ngày đầu tiên con gặp cha, tay bắt mặt mừng, cha niềm nở tiếp đón con cách ân cần và lịch sự, tựa như một người khách quý của cha. Con đã hỏi cha rằng: “cha ơi! đang đau bệnh nặng như vậy, cha có cảm thấy mệt khi giúp con không? Nếu cha mệt thì cha cứ nói con dừng lại và nghỉ nghơi cha nhé!”. Đáp lại, cha mỉm cười: “Không sao đâu thầy! Khi nào cha mệt cha sẽ nằm nghỉ, với lại Chúa cho cha sống ngày nào thì đó là hồng ân, là niềm vui ngày đó. Được giúp thầy, đó cũng là một ơn Chúa ban cho cha rồi!” Nói rồi, cha khẽ mỉm cười, một nụ cười toát lên niềm vui sâu xa, và hạnh phúc sâu thẳm.

Sau đó, từng bước, từng bước một, cha nhẹ nhàng cùng còn đi vào đời sống tâm linh của mình và tìm cách hướng dẫn con đi theo Thánh Ý Chúa. Cha đã dạy con cách phân định thiêng liêng trong từng hoàn cảnh của ngày sống cách kỹ lưỡng. Thậm chí, có lần hai cha con cùng ôn lại 2 bộ phân định thần loại của thánh I-nhã. Đặc biệt, cha đã đặt lại kinh nghiệm cá vị của con với Chúa Giêsu cách nghiêm túc. Bằng cách đặt những câu hỏi rất cơ bản và nền tảng, chẳng hạn như: “Tháng rồi, thầy Đức có bình an, hạnh phúc và triển nở không? Thầy có cầu nguyện được không? Tháng rồi, thầy có kinh nghiệm gì với Chúa không? Đâu là lời mời gọi của Chúa cho thầy trong thời gian qua?”

Con đã trả lời những câu hỏi trên của cha, và thậm chí còn chia sẻ cả những bối rối, lo sợ và bất an của mình. Chẳng hạn, có lần con lo lắng về sứ mạng thực tập tông đồ 2 năm tới của mình, con không biết bề trên giám tỉnh sẽ gửi mình đi đâu? Bởi con hiểu rõ về những giới hạn của mình, như sức khỏe, kỹ năng làm việc, sự tự tin, tinh thần dấn thân, nhiệt huyết tông đồ,… Sau khi lắng nghe, cha khẽ cười và đáp lại cách nhẹ nhàng: “Nếu con không phù hợp với chỗ đó, thì bề trên vẫn có thể gửi con đi chỗ khác được mà, có gì đâu mà phải lo lắng, sợ hãi! Điều quan trọng là hãy trình bày nội tâm, điểm mạnh, điểm yếu của mình, sau đó thì hãy để bề trên, thay mặt Chúa sếp đặt cho mình. Con hãy nhớ rằng: Chúa và nhà Dòng luôn muốn điều tốt nhất cho con.”

Quả thật, con đã thực hiện như lời cha dạy bảo: “vâng phục và yêu mến sứ mạng bề trên trao phó cho mình, chính là Thánh Ý Chúa” và cho đến nay, con cảm thấy sự bình an, nhiều niềm vui và hạnh phúc trong sứ vụ hiện tại mà mình đang đảm trách. Cách đây vài tháng, con chia sẻ lại kinh nghiệm thú vị này cho cha, thì cả hai cha con đều vui mừng và hạnh phúc, bởi khi vâng lời bề trên, chính Chúa sẽ làm cho ta những điều tốt đẹp và như lời Thánh Vịnh đã chép “ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (TV 126,3). Có lẽ, đó là một trong những kinh nghiệm đẹp mà con được cha giúp trong linh hướng.

Trong lần gặp cuối cùng, trước khi cha về với Chúa, có lẽ đây là những lời chăn chối chân thành, chân tình, và chân ái nhất mà cha dành cho con. Cha đã khuyên nhủ con rằng: “Đức ơi! Được sống đó là một ơn lớn lao từ Thiên Chúa rồi! Có lẽ người hạnh phúc nhất là người biết mình được Thiên Chúa yêu thương và ở cùng mỗi ngày. Vì thế, con hãy trung thành với giờ cầu nguyện sáng, xét mình trưa và tối kỹ lưỡng. Con hãy kéo dài bầu khí thiêng liêng với tâm tình cầu nguyện và tạ ơn Chúa trong toàn bộ ngày sống. Bởi lẽ, còn cầu nguyện là còn đi tu được con nhé!”

Giờ đây, đứng trước di ảnh của Cha mà lòng con xao xuyến, bồi hồi, và thương mến không nguôi. Những lời sau cuối của cha dành cho con luôn vang vọng trong tâm khảm, thôi thúc tâm can, và dâng tràn cảm xúc. Dù là anh em trong Dòng, dù cách xa bao thế hệ và tuổi tác, nhưng con cảm thấy cha luôn yêu thương, quý mến và tôn trọng con. Xin cám ơn cha với những lời khuyên nhẹ nhàng, dịu dàng, chân thành và sâu đậm dành cho con. Con cầu nguyện xin Chúa ban cho cha gia nghiệp Nước Trời, sau một đời trung thành và nhiệt tâm theo Chúa Giêsu Vác Thập Giá đến cuối đời. Con xin cảm ơn cha, một người cha, một người thầy và là một người Bạn Đường của Chúa Giêsu, đã yêu thương và dắt dìu con đi trong đời sống thiêng liêng và ơn gọi Dòng Tên.

Hv: Minh Đức, SJ

 

 


Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ

 

KHÁT PHỤC VỤ CỦA GIÊSU

Tin Mừng (Ga 13, 1-15)

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”. Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.”

Ơn Xin: Xin Chúa cho con có được cảm nhận thâm sâu về tình yêu cá vị, mà Chúa Giêsu dành cho con. Để con yêu mến Chúa hơn, và có được lòng khao khát phục vụ anh chị em mình, như chính Chúa Giêsu, vì yêu thương mà phục vụ chúng con.

Khung Cảnh: Trong một căn phòng kín đáo, nơi diễn ra bữa tiệc ly, đang khi dùng bữa, Chúa Giêsu cởi áo choàng, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu. Người tiến đến bên chân các môn đệ, cúi mình xuống, đổ nước và rửa chân cho từng người học trò của mình. Các môn đệ lúng túng, ngỡ ngàng vì không hiểu hành động của thầy Giêsu. Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của hành động trên: đó là “Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.” Thầy Giêsu đã làm gương cho các môn đệ, để các môn đệ cũng làm như Thầy, nghĩa là phục vụ anh em mình.

Phần này đặt vào booklet để mọi người đọc chung trước khi gợi điểm

Lời nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Diễn Giải Tin Mừng

Chỉ có một mình thánh Gioan thuật lại bối cảnh Chúa Giêsu (CG) rửa chân cho các môn đệ. Khi biết mình sắp lìa bỏ thế gian để về cùng Chúa Cha, CG có rất nhiều khao khát, thao thức và trăn trối cho các môn đệ. Có lần CG đã thốt lên “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Dĩ nhiên, ‘phép rửa’ mà CG đề cập ở đây được hiểu là cuộc thương khó mà Ngài sắp phải vượt qua. Nhưng trước khi đi vào cuộc khổ nạn, CG đã bày tỏ tình yêu thương các môn đệ qua cách phục vụ họ. Ngài khiêm nhường cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly.

Cụ thể, trong chương 13 của Tin Mừng này, thánh Gioan khéo léo lồng ghép những chi tiết và câu nói rất có ý nghĩa. Chẳng hạn như: “Ngài yêu thương họ đến cùng”àThầy Giêsu biểu lộ tình thương bằng hành động cụ thể cho các môn đệ; “các con cũng phải làm việc này cho nhau” àhành vi nêu gương rửa chân cho các môn đệ của Chúa Giêsu là bài học khiêm nhu phục vụ. Bởi lẽ, “dấu hiệu người ta nhận biết, anh em là môn đệ Thầy, đó là hãy yêu thương nhau” à yêu thương phục vụ là “điều răn mới” mà thầy Giêsu muốn người môn đệ khắc cốt ghi tâm. Ở đây, chúng ta sẽ suy niệm sâu kỹ hơn về tình yêu thương được thể hiện qua thái độ: Khao khát phục vụ.


 

Suy niệm và cầu nguyện

Khao Khát Phục Vụ Trong Tình Yêu Thương

Ta hãy thử cảm nhận tình thương của CG dành cho các môn đệ. Thánh Gioan thuật lại rằng: “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình…và đã yêu thương đến cùng”. Thật vậy, tâm thế của một người sắp đi xa, họ thường chu đáo, quan tâm, lo lắng cho người ở lại, nhất là những người mình yêu thương. Một người mẹ sắp đi xa, còn làm được gì cho con cái thì bà tận dụng thời gian còn lại để làm, như quét dọn phòng ốc, vá chiếc áo quần, chuẩn bị đồ ăn trong tủ lạnh, thuốc men bên giường của con… và lặp đi lặp lại những lời dặn dò kỹ lưỡng…

Chúa Giêsu cũng đã căn dặn các môn đệ rất nhiều điều, nhưng có lẽ điều quan trọng mà Ngài nhấn mạnh nhất trong bữa tiệc ly đó là: “hãy yêu thương nhau và phục vụ lẫn nhau”. Đứng trước hành vi và thái độ khiêm nhường cúi xuống phục vụ của Chúa Giêsu, các môn đệ không khỏi ngỡ ngàng và bối rối. Bởi lẽ, trong tâm thức của họ vẫn còn những ước mơ vinh hoa, quyền lực và tự phụ. Họ vẫn dò xét xem ai là người làm lớn giữa anh em với nhau? Khi nào thì thầy Giêsu sẽ khôi phục vương quốc Israel và ai sẽ được ngồi bên tả bên hữu Thầy trong vinh quang…?

Đi sâu vào ánh mắt và nội tâm của CG, ta thấy hình ảnh một Đấng Messia cúi xuống rửa chân như người tôi tớ phục vụ, có lẽ đã trái ngược với suy nghĩ của nhiều người trong các môn đệ. “Chúa mà rửa chân cho con sao? Không đời nào con chịu đâu?” Ánh mắt nhìn của CG vào các môn đệ và thốt lên: “"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy", và kết luận của Ngài là: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” Chúa Giêsu đã nói và đã thực hiện điều đó bằng hành động cụ thể, đó là cúi xuống phục vụ anh em mình.

Có lẽ, niềm khao khát phục vụ của Chúa Giêsu rất mạnh mẽ. “KHÁT” ở đây không chỉ là động từ chỉ việc khát nước, nhưng chính là khao khát phục vụ anh em trong tình yêu thương, và để anh em học theo hành vi yêu thương đó mà phục vụ lẫn nhau. Thật vậy, nếu phục vụ mà không có tình yêu thương tựa như “thanh la phèng phèng, chũm chọe, xoang xoảng…”, người ta dễ trở thành người thợ làm mướn, làm công ăn lương…hoặc thậm tệ hơn, như một người nô lệ vì sợ hãi mà phục vụ chủ mình. Dĩ nhiên, CG đã làm công việc như người nô lệ là rửa chân cho chủ, nhưng thái độ và hành vi của CG được xuất phát từ tình yêu tự hiến.

Đỉnh cao của tình yêu tự hiến là hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu thương. Thật vậy, CG đã “đến trần gian không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tình yêu tự hiến thể hiện qua thái độ khiêm nhường phục vụ, xóa hủy mình ra không, hy sinh cả mạng sống mình cho người mình yêu. Khi đọc đoạn thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi cho tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta mới thấy CG yêu thương chúng ta đến mức nào: “Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.” (Pl 2,6-11).

Yêu là trao ban, là hy sinh, là bỏ mình, là phục vụ lẫn nhau. Thật vậy, một trong các đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu.

Hình ảnh của CG KHÁT yêu thương và KHÁT phục vụ, tựa như cây nến chịu tan chảy chính mình để chiếu sáng cho mọi người. Cũng thế, nếu không chịu hủy mình, thiệt thân và hy sinh, ta không thể nào phục vụ anh chị em mình được. Chẳng hạn, muốn đi làm từ thiện ta phải hy sinh không chỉ tiền bạc mà còn cả thời gian công sức và tâm huyết. Muốn tham gia một hội đoàn (ca đoàn, hội hiền mẫu, gia trưởng, thiếu nhi TT…), ta phải hòa mình, hòa đồng, hòa nhã với mọi người, nếu muốn cho bầu khí cộng đoàn được bình an, hiệp nhất, mỗi người phải từ bỏ cái tôi, ý riêng nhiều hơn, dẹp bỏ tính tự ái, hơn thua, ghen tị, chỉ trích, xoi mói, dèm pha, khinh thị… Thậm chí, nếu tâm ta có đủ tình yêu thương, thì những lỗi lầm, thiếu xót của người khác đối với ta chỉ tựa như nắm muối nhỏ bỏ vào biển sông mênh mông, chẳng hề thấy mặn mà, chua chát gì cả.

Nhìn vào gương mẹ Têrêsa Calcutta, ta thấy mẹ dành cả đời để cúi mình xuống phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, què quặt, đui mù, ghẻ lở… Hay như ĐTC Phanxio, từ khi nhận chức Giáo Hoàng (2013-nay), ngài luôn tổ chức thánh lễ tiệc ly ở trong các nhà tù, thăm viếng, ủi an và cúi mình xuống rửa chân cho những người tu tội đó. Đã không ít người ôm chặt lấy ĐTC mà khóc lóc, mà vui sướng và cảm động, vị họ thấy mình được tôn trọng và yêu thương. Tuy hành động nhỏ bé, nhưng với tình yêu lớn lao, có thể ĐTC đã gieo niềm tin yêu, hy vọng vào tâm hồn những tù nhân đã bị tổn thương, đau khổ, và thiếu vắng tình yêu.

Câu hỏi phản tỉnh:

-            Có bao giờ ta thốt lên lời nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho con chỉ biết khao khát một mình Chúa”?

-            Tôi có cảm nhận về việc được TC yêu thương và chăm sóc không? Như thế nào?

-            Đâu là những lời mời gọi Chúa dành cho tôi trong việc yêu thương và phục vụ anh chị em mình?

-            Tôi có cảm thấy xấu hổ, mất công, mệt mỏi khi phục vụ anh chị em mình không? Động lực nào thúc đẩy tôi phục vụ anh chị em mình? Nếu được chọn lựa một việc nào đó để phục vụ anh chị em, tôi sẽ chọn lựa việc nào, cụ thể ra sao?

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Ơn Gọi Của GIa-kêu (TTCT 3.2025 Quay Xe)

 

GIA-KÊU “QUAY XE”



Lời Chúa: Lc 19, 1-10

Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.

Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”.

Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.

Khung cảnh: Hãy mường tượng khung cảnh thành Giêricô, nơi có đám đông lũ lượt đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó, Giakêu nghe người ta nói nhiều về Đức Giêsu, nhân vật tốt lành, giàu tình thương, uy tín, thiêng liêng. Chính khi ‘tò mò’ và để ý đến những điều thiêng liêng, cao quý… Giakêu đã tìm cách để gặp gỡ Giêsu, nhưng vì đám người đông và mình thấp bé, nên ông gặp nhiều khó khăn, cản trở; nhưng thay vì bỏ cuộc, Giakêu đã có sáng kiến trèo lên cây sung để tiện quan sát Giêsu từ đàng xa và từ trên cao. Chúa Giêsu đi ngang qua và thấy Giakêu ở trên cây, Chúa nói chuyện và vào thăm nhà ông. Được gặp Chúa Giêsu, cuộc đời Giakêu như bước sang một trang sử mới, đó là được ơn cứu độ.

Ơn Xin: Xin cho con có tấm lòng khao khát tìm gặp Chúa để được biến đổi và dám can đảm “quay xe” với con người cũ, sống con người mới trong tình yêu Chúa và tha nhân hơn.

Diễn giải Tin Mừng:

Thánh Luca là tác giả duy nhất thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu. Vậy Giakêu là ai? Không những là người thu thuế mà Giakêu là người đứng đầu những kẻ thu thuế (Tổng giám đốc cục thuế) và là người giàu có. Thông thường, người thu thuế thời Chúa Giêsu đều là người giàu có, vì của cải họ kiếm được thường là do gian lận. Họ bị người dân căm ghét, vì tiền thu thuế phải nộp cho ngoại bang là đế quốc Rôma. Rất nhiều trường hợp trong Tin Mừng cho thấy sự khinh bỉ của người dân đối với những người hành nghề thu thuế. Những người này cũng được đồng hoá với các tội nhân, như lời xầm xì của dân chúng: “nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Thánh Luca không nói rõ Chúa Giêsu lưu lại ở nhà ông Giakêu bao lâu, nhưng vào thời đi lại khó khăn, chắc hẳn thời gian Chúa viếng thăm không chỉ trong chốc lát. Ông Giakêu, một người thấp bé về vóc dáng, nhưng lại thông minh về trí tuệ, và tha thiết về ước vọng muốn làm lại cuộc đời. Ông muốn gặp Chúa. Vì vóc dáng khiêm tốn của mình, ông đã trèo lên một cây sung để nhìn Chúa cho rõ.

Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu đã làm cho cuộc đời ông Giakêu sang trang mới. Trước những dị nghị của đám người đang ghen tức và bình phẩm, ông quả quyết tuyên bố sẽ canh tân bản thân. Ông nhận ra những lỗi lầm do việc gian lận, và nay ông hứa sẽ đền gấp bốn. Ông cũng sẵn sàng chia sẻ phần nửa tài sản cho người nghèo. Cuộc đời của ông Giakêu đã hoàn toàn đổi mới. Ông tìm thấy niềm vui và bình an khi sám hối và chia sẻ.

Gợi ý suy niệm và cầu nguyện:

1.     Cú Quay Xe Của Giakêu về Với Giá Trị Cốt Lõi

Hãy thử hình dung, Giakêu đứng đầu chế độ thu thuế thời đế quốc Roma để đô hộ dân Do Thái. Ắt hẳn ông là người giàu có, tài năng và đầy danh vọng. Tuy nhiên, trong lòng ông có thể vẫn chưa được bình an sâu lắng và hạnh phúc đích thực, bởi vì đời sống nội tâm của ông thường bị dằn vặt, tra vấn trước những lời chỉ trích, đàm tiếu, soi mói, hạ bệ, khinh thị...của mọi người. Hay sâu xa hơn, Giakêu muốn tìm kiếm một giá trị cao quý, bền vững và thiêng liêng hơn. Đó là một giá trị cốt lõi mang tính siêu việt và siêu nhiên hơn những gì là vô thường và tầm thường mà ông đang nắm giữ.

Nghe tin Chúa Giêsu đi ngang qua nhà mình, Giakêu tìm cách để nhìn xem Giêsu là người như thế nào? Dĩ nhiên, trước đó có thể Giakêu đã nghe biết Giêsu là người công chính, thánh thiện và giàu lòng thương xót khi chữa lành bệnh tật, yêu thương người nghèo hèn khốn khổ, rao giảng Lời Chúa, sự sống Nước Trời… Thế nên, Giakêu được ấn tượng bởi hình ảnh nhân hậu và từ bi của Giêsu và ông tìm cách gặp Người.

Thực tế, ta thấy Giakêu phải từ bỏ mình nhiều lắm, khi là một ‘giám đốc cục thuế’ với danh tiếng và địa vị cao, mà lại phải trèo lên cây sung như một đứa trẻ con và làm một việc như ‘trò hề’ vậy. Hơn nữa, là một người không còn trẻ mà lại trèo lên cao sẽ khá nguy hiểm đến tính mạng, chưa kể nhiều khi có côn trùng, rắn rết, muỗi bọ, kiến, ong, bọ, sâu… bò vào người, thậm chí dễ dàng bị trầy xước da thịt và dơ bẩn quần áo. Thế nhưng, vượt qua những rào cản đó, thậm chí cả về thể lý nhỏ bé, tâm lý bị coi thường, …với lòng can đảm và khát khao tìm gặp Chúa Giêsu, Giakêu đã được như ý sở nguyện, Chúa đến thăm ông.

Hãy thử hình dung khung cảnh Giêsu ngước nhìn lên Giakêu nhỏ nhắn đang run rẩy ở trên cây và hằng trăm con mắt nhìn lên ông, có lẽ ông sẽ đỏ mặt và vô cùng lúng túng. Tuy nhiên, ánh mắt nhân từ của Giêsu đã đụng chạm vào đôi mắt thẳm sâu đầy khao khát hướng thiện của Giakêu. Dường như Giêsu đã đụng chạm đến chiều sâu thầm kín của Giakêu, khiến ông có thể hết sức cảm động và hạnh phúc đến rơi lệ khi được Chúa yêu thương và quan tâm. Ở đây, ta thấy Thiên Chúa luôn đi bước trước để tìm kiếm và gặp gỡ con người. Bởi vì, Thiên Chúa luôn thấu suốt tâm hồn, tấm lòng của chúng ta. Chỉ cần ta có khao khát tìm gặp Chúa, chắc chắn Người sẽ không để ta phụ lòng.

Thật vậy, Thiên Chúa đã hạ mình xuống để đi tìm kiếm con người, nay Chúa lại ngước mắt nhìn con người. Ánh mắt của Giêsu và ánh mắt của Giakêu đã gặp nhau. Ánh mắt Chúa đã thuyết phục ông. Đáp lại, ông “vội vàng tụt xuống” và mừng rỡ đón rước Người. Chúng ta tưởng tượng thấy một Giakêu rất vui vì được Chúa chủ động đề nghị đến thăm nhà ông. Ông vốn mặc cảm trước ánh mắt của người đời, chỉ mong lén nhìn thấy Chúa, thì nay, ánh mắt của Thiên Chúa lại tìm kiếm ông. Lòng thương xót của Thiên Chúa đã xoá đi mọi khoảng cách. Đối với Chúa Giêsu, trước mặt Người không còn là thu thuế hay biệt phái, không còn là người giàu hay nghèo, mà là con cháu tổ phụ Abraham. Con cháu Abraham tức là dòng dõi những kẻ tin. Nhờ lòng tin mà ông được cứu rỗi.

Càng suy nghĩ kỹ, ta càng thấy Giakêu đã có một cuộc “quay xe” nghiêm túc với Thiên Chúa để chọn lựa những giá trị cốt lõi cho cuộc đời mình đó là ơn cứu độ, sự sống đời đời. Dĩ nhiên, cuộc “quay xe” của Giakêu sẽ gặp không ít những khó khăn, trắc trở, và gian nan. Bởi ông sẽ phải từ bỏ cuộc sống sung túc, giàu sang, tiện nghi và thoải mái, thay vào đó là sự bấp bênh, và nghiêm túc hơn với lề luật Chúa. Thế nên, bất cứ cuộc “quay xe”, “trở lại” và “trở về cùng với Chúa” đều phải từ bỏ một số điều nào đó.

Reflections:

-        Đâu là những giá trị cốt lõi trong đời sống của tôi? Phải chăng là nhiều tiền bạc, danh vọng và địa vị cao? Hay là đời sống thân mật với Thiên Chúa? Xây đắp giá trị tình thương và lòng nhân ái?

-        Điều gì làm cản vướng tôi “quay xe” về với Thiên Chúa? Phải chăng là bận rộn của việc kiếm tìm cơm áo, gạo tiền, hay những tiện nghi của thời hiện đại… Khiến tôi gặp nhiều khó khăn để đến với Thiên Chúa? Trong mùa Chay Thánh này, tôi sẽ “từ bỏ” những điều gì để có thể “quay xe” về với Thiên Chúa?

2.     Kinh Nghiệm Gặp Gỡ với một Thiên Chúa thứ tha

Trong cuốn sách “Thực Hành Linh Hướng” của cha William A. Barry và William J. Connolly đã viết rằng: “Để hướng dẫn người khác trên đường thiêng liêng, trước hết cần hỏi họ kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa, chẳng hạn: Thiên Chúa là ai đối với bạn và ngược lại, bạn là ai đối với Ngài?” Thực tế, Giakêu đã có một kinh nghiệm cá vị với Chúa Giêsu, trong đó, ông cảm thấy mình được Thiên Chúa quan tâm, yêu thương và tha thứ tội lỗi. Thậm chí, Thiên Chúa còn ban ơn cứu độ cho ông “hôm nay, ơn cứu độ đến trên nhà này.”

Chính kinh nghiệm cá vị về tình yêu Thiên Chúa đã làm cho Giakêu được biến đổi, ‘hoàn lương’, sám hối (hoàn trả gấp 4) và hướng thiện hơn. Giakêu đã trở nên công chính và được ơn cứu độ.

Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá huỷ tất cả mọi sự, và mất tất cả.

Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng Shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, quì xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau:

“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Mọi tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài: Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.

Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu.

Refections:

-        Trên đây là kinh nghiệm của Harold Hughes về Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa ông. Vậy tự vấn chính mình, có lần nào ta có một kinh nghiệm về việc Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa chính mình chưa?

-        Rất nhiều lần Chúa đứng trước cửa lòng ta và gõ cửa, hay ngước nhìn lên ta như ánh mắt nhìn Giakêu, nhưng có thể ta đã không mở ra đón tiếp Giêsu đến thăm?

-        Xin Chúa giúp con xây dựng tương quan tình thân với Ngài, dám dành giờ cho Ngài.

 

 

 

 

 

 

Kinh Manificat

 

Manificat, Cùng Đức Maria đếm những ân ban

 




Ơn Xin: Xin Thiên Chúa giúp con nhìn lại một năm qua, để nhận ra những ân sủng mà Chúa đã ban cho con, để con biết sống tâm tình tạ ơn Ngài mỗi ngày. Trong năm mới này, xin bàn tay Chúa nắm lấy tay con và dẫn dắt trên những nẻo đường mà Chúa muốn con đi.

Bối cảnh bản văn Tin Mừng.

Sau khi được sứ thần Gabriel truyền tin: người chị họ lớn tuổi Elizabeth đang mang thai, mẹ Maria liền vội vã lên đường đi thăm và chăm sóc người chị họ đang trong thời kỳ thai nghén và chuẩn bị sinh con. Theo lời truyền tụng từ thế kỷ thứ 5, gia đình Giacaria ở triền núi, trong một thành thuộc xứ Giuđa, tên gọi Ain Karim cách Giêrusalem 7 cây số về phía tây. Đường đi từ Nazareth đến Ain Karim trên đồi, cách Giêrusalem 6 km và phải mất 3-4 ngày đường để di chuyển (cách Nazaret khoảng 160 km). Do đó, chắc hẳn cuộc hành trình của cô Maria lên miền núi không tránh được những mệt nhọc vất vả. Thế nhưng, dù đường xa vạn dặm, rừng núi trùng điệp, mẹ Maria vẫn hăng hái, hân hoan lên đường. Vừa gặp mẹ Maria, bà Elisabeth lớn tiếng hô lên: “bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến viếng thăm…”. Lúc đó, được đầy tràn Thánh Thần, trong tâm tình tạ ơn Chúa, Mẹ Maria cất tiếng ngợi khen: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…”

Lectio Divina: Tin mừng: Lc 1, 46-56

46 Bấy giờ bà Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47
 thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

48 Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.

49 Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!

50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

52 Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.

54 Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
55
 như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”

56 Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.


 

1.     Chiêm Niệm, ngợi khen và tạ ơn Chúa

“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi”. Đây là lời tri ân cảm mến, ngợi khen tán dương Thiên Chúa của mẹ Maria khi gặp bà Elisabeth. Lời kinh Manificat như lời tạ ơn Thiên Chúa bay cao giữa muôn trung núi non, làm rạng danh Thiên Chúa với công trình hùng vĩ bao la mà Người đã thực hiện trên cuộc đời mẹ Maria. Công trình của Thiên Chúa thật mới mẻ và lạ lùng, bởi chuyện đó trước giờ chưa từng xảy ra, “Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng con người”. Dường như, thời gian như ngừng đọng, trái đất như ngừng quay để lắng nghe lời thốt lên của Đấng Đầy Ân Sủng và Được Thiên Chúa Ở Cùng: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Bản văn KT mô tả lời Đức Mẹ với danh từ “δούλη” (doule) vừa có nghĩa là “nữ phục vụ”, vừa có nghĩa là “nữ nô lệ”. Đây là một sự tương phản khi Thiên Chúa hùng vĩ, cao sang trên chín tầng trời, còn mẹ Maria chỉ nhận mình là nữ tì hèn mọn, mà Chúa đã đoái thương nhìn tới.

Chính sự chênh lệch địa vị này làm cho mẹ Maria cảm thấy tình thương và vinh dự mà Thiên Chúa ưu ái, ban tặng cho mẹ lớn lao dường nào. Ơn huệ lớn lao đến nỗi người chị họ phải “lớn tiếng kêu lên: bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến viếng thăm.” Bà Elizabeth cũng nhận ra những phúc lành mà Chúa tặng ban cho người em họ. Không phải chỉ có người chị họ khen mẹ Maria rằng: “em thật có phúc” trong lúc biến cố viếng thăm, nhưng mà “từ nay muôn thế hệ sẽ xem rằng tôi có phúc” (Lc 1,48). Tất cả là vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả. Những điều cao cả có thể là những điều mà sứ thần đã đề cập đến trong biến cố truyền tin. Cao cả nhất là trở thành “Thân Mẫu của Đức Chúa”.

“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! (c. 49)” Mẹ Maria đã chiêm ngắm cuộc đời mình để thấy việc Thiên Chúa làm trên cuộc đời mẹ, thật lạ lùng! Một bầu khí thiêng liêng, đan xen với cảm xúc hân hoan, sướng vui, hạnh phúc nơi mẹ Maria. Mẹ không quy hướng mọi phúc vinh đó về mình, nhưng quy về Thiên Chúa, “danh Người thật chí thánh, chí tôn.” à Nhìn lại một năm qua, ta tự hỏi đâu là những ơn lành, phúc lộc mà Thiên Chúa ban cho tôi? Mọi phúc vinh đó là do chính khả năng, sức lực phấn đấu của tôi hay là ơn Chúa ban? Tôi quy hướng mọi thành công và thất bại về chính mình hay về Thiên Chúa? Hay cả hai?

“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người (c. 50)” Trong sách Châm Ngôn (9,10) đã viết: “kính sợ Chúa là đầu mối của sự không ngoan”. Thật vậy, những kẻ kiêu căng, quyền thế thì Thiên Chúa sẽ hạ bệ, Người nâng cao những kẻ khiêm nhường, kính sợ Chúa. Nhìn lại chính mình, có khi nào ta chẳng cảm thấy “kính sợ Chúa”, điển hình như việc phạm tội cố hữu nào đó, dù biết là điều không đẹp lòng Chúa, nhưng ta vẫn cứ thích làm! Chẳng hạn như: nói hành nói xấu, ham mê danh, dục vọng, lười nguyện gẫm kinh hạt, cầu nguyện với Chúa…?

Kế đến, Mẹ Maria tiếp tục diễn tả về tình yêu và lòng thương xót của Chúa như: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đây dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.”

Mẹ đã nhìn lại lịch sử cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại, cụ thể là dân Israel, từ thời tổ phụ Apraham cho đến nay. Tình thương Chúa luôn dạt dào, bao phủ mặt đất, qua bao thế hệ, những ân tình của Chúa luôn vạn đại thiên thu. Thật vậy, chỉ khi nhìn lại những chặng đường đã qua, ta có thể dễ dàng nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trong tâm tình tri ân, cảm mến. Đức Giáo Hoàng Phanxico đã từng nói: “người hạnh phúc nhất là người biết mình được TC yêu thương và biết ơn là một trong những tâm tình khiến ta sống hạnh phúc trong tình nghĩa với Thiên Chúa.”

Hy vọng niềm vui ơn cứu độ sẽ đến với nhân loại chúng ta hôm nay, trước tiên cần khởi sự từ chính bản thân mỗi người. Nhìn lại đời mình, cụ thể một năm qua, để thấy những ơn lành Chúa ban trên cuộc đời mình. Ơn thường sủng và ơn đặc sủng. Chẳng hạn như: Giữa thế giới chiến tranh loạn lạc, nhiều người sống trong cảnh tị nạn, màn trời chiếu đất, đói khát cơm bánh, nước non, bệnh tật… Ta có ngôi nhà ấm cúng, bữa ăn ngon, những tiện nghi tiêu xài hằng ngày… Đó chẳng phải là ơn thường sủng mà Chúa ban cho ta hay sao?

Thuở thơ bé, có thể ta thường dạo chơi dưới cơn mưa, hay đưa đôi bàn tay để hứng nước mưa từ mái hiên nhà, những hạt mưa tí tách rơi, đua nhau nhảy múa trên sân, trên đôi bàn tay của ta. Những giọt nước mưa tràn trề, chan chứa… Cũng thế, ân sủng Chúa dạt dào như mưa như mưa, chỉ có điều là lòng ta có đủ rộng để đong đầy và chất chứa những hồng ân đó hay không mà thôi! Không biết vì đôi tay của ta quá lớn hay ơn Chúa quá ít mà có thể tôi chưa bao giờ cảm thấy đầy đủ và no thỏa để nói lên lời tạ ơn?

Câu chuyện biết ơn: Có hai người bộ hành đi trong một khu rừng rậm. Đó là hai ông cháu. Trời nóng và oi bức. Họ khát nước. Cuối cùng, ông cụ và đứa cháu cũng tìm đến một con suối nhỏ. Hai người cúi xuống uống nước. Uống xong ông cụ nói: “Cảm ơn dòng suối nhỏ nhé”.

Đứa cháu thấy vậy thì cười. Ông cụ liền hỏi: “Sao cháu lại cười?” Đứa cháu trả lời: “Có gì mà ông phải cám ơn dòng suối chứ? Nó có phải là người đâu? Nó không nghe được lời ông nói, nó không hiểu được lời cám ơn của ông”.

Ông cụ tỏ vẻ suy nghĩ. Dòng suối vẫn chảy róc rách. Chim vẫn hót vang trong cánh rừng. Sau một hồi lâu im lặng, ông bảo với đứa cháu: “Thế đấy, dòng suối có nghe thấy gì đâu. Nếu như có một con sói đến uống nước, có thể nó không biết ơn dòng suối. Nhưng chúng ta không phải là chó sói, mà là con người. Đừng quên điều đó cháu ạ. Cháu có biết con người nói hai tiếng cám ơn là để làm gì không?”

Đứa bé trầm ngâm. Nó chưa bao giờ suy nghĩ về điều đó. Cụ già chậm rãi bảo cháu: “Cháu ơi, con người nói lên hai tiếng cám ơn chính là để không bao giờ trở thành chó sói”.

Lạy Chúa! Con xin tạ ơn Chúa vì chúng con có được của ăn trong một thế giới còn nhiều người phải đói khát, chúng con có được niềm tin trong một thế giới con nhiều người phải sợ hãi, chúng con có được tình bạn trong một thế giới còn nhiều người phải lẽ loi. Chúng con xin tạ ơn Chúa vì tất cả những ơn lành mà Chúa ban! Có những ơn chúng con thấy được và cả những ơn chúng con chưa nhận ra. Noi gương Mẹ Maria đã nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đón nhận với tâm tình ngợi khen, cảm tạ. Xin cho chúng con biết ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước ơn lành của Thiên Chúa và can đảm quy hướng tất cả mọi hồng ân về chính Chúa, để chúng con biết sống trong tâm tình tạ ơn và yếu mến Chúa hơn mỗi ngày. Amen

 

 

 

2.     Tạ ơn Chúa và dấn bước lên đường gặp gỡ tha nhân

Khi Mẹ Maria gặp được Chúa, có Chúa trong lòng, và nhận ra những ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa tặng ban, Mẹ Maria không chỉ giữ cho riêng mình, nhưng hân hoan, hăng hái “lên đường hành hương” để “gặp gỡ tha nhân”, đây chính là “Niềm Vui Tin Mừng” của Mẹ.

Mẹ Maria đã “ra khỏi mình để gặp gỡ” người chị họ già yếu, mang nặng đẻ đâu và Mẹ bất chấp mọi nguy hiểm, nhọc mệt, gian nan, khó khăn…Chỉ vì tình yêu và muốn đem Chúa đến cho chị họ. Có lẽ, Mẹ tin rằng có Chúa cùng đồng hành, chẳng có chi nguy biến. Chính Đức Giáo Hoàng Phaolo VI đã nói: “Đức Maria là người môn đề đầu tiên và trọn hảo nhất của Đức Ki-tô và trọn hảo nhất về mặt đức tin.” Apraham là cha của những kẻ tin, dù ông được có lời hứa “đất và dân”, còn Mẹ Maria chẳng có lời hứa nào khác ngoài niềm tin của Mẹ là đặt mình trong tay Thiên Chúa.

 Ngày nay, con người thường có xu hướng muốn thu mình lại trong vùng an toàn, sống với chiếc điện thoại để nhìn cả thế giới trong căn phòng nhỏ bé của mình. Bước ra ngoài vùng an toàn, chắc hẳn sẽ có nhiều hiểm nguy, ra đường có thể dễ gặp tai nạn giao thông, gặp người mình quen đi chơi, ăn uống có thể tốn kém, nói chuyện với bạn bè có thể gặp bất đồng quan điểm, nghĩ tiêu cực về nhau… Có lẽ, chọn lối sống an phận thủ thường sẽ dễ dàng hơn việc giao kết, liên lạc và giữ tương quan với nhiều người, đặc biệt là những người mình không ưa thích, hoặc họ có địa vị thấp kém, nghèo hèn, quê mùa, dốt nát…

Tóm lại, chỉ khi ta gặp được Chúa, thấy được ân sủng Người ban, lòng tràn đầy sướng vui, hạnh phúc… ta mới can đảm, tin tưởng nơi bàn tay Chúa mà gieo bước lên đường, chia sẻ niềm vui Tin Mừng cứu độ đến với mọi người. Có thể đó là một cuộc thăm viếng với lời khích lệ, ủi an, như Mẹ Maria đển để vỗ về, an ủi nỗi tủi hổ mà bà Elizabeth đã gánh chịu bao năm qua vì vô sinh hiếm muộn, bởi miệng lưỡi người đời cho là vô phúc.

Hơn nữa, mặc dù là Mẹ Thiên Chúa, cao trọng tựa như “Hoàng Thái Hậu”, nhưng Mẹ Maria vẫn khiêm nhường và cúi mình để phục vụ người chị họ, chứ không phải được phục vụ. Đây là tấm gương tuyệt diệu mà người “có Chúa ở trong lòng” mới có thể làm nên.

Nhìn lại thời gian đã qua, tôi có thấy mình tràn đầy niềm vui khi gặp được Chúa và hân hoan lên đường đem Chúa đến cho mọi người hay chưa? Đâu là điều cản trở tôi gặp được Chúa? Đâu là niềm vui thường ngày của tôi là gì? Có phải là Thiên Chúa hay không? Trong năm mới này, tôi sẽ có những dự phóng nào để đáp lại những lời gọi mời của Chúa cho cuộc đời tôi? Tôi có thể làm một hành động nhỏ là dành một số giờ cầu nguyện với Chúa, tham dự thánh lễ, cầu nguyện trước Thánh Thể, đi thăm viếng người thân, họ hàng dịp tết, thăm những người nghèo khổ và kém may mắn ở xung quanh ta...?

Lạy Chúa! Như Mẹ Maria đã gặp được Chúa, Mẹ tràn đầy niềm vui, để lên đường hành hương, gặp gỡ và giúp đỡ tha nhân. Xin cho con lòng tin mến, trên cuộc lữ hành đức tin, biết yêu mến và noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng ra khỏi mình để đến với tha nhân, gặp gỡ, phục vụ và trao ban Chúa cho họ. Amen.

Mở bài nhạc: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…

Có Tiếng Hô Trong Hoang Địa

 

DẤU CHÂN HÒA BÌNH

 (Ga 1, 19-28)


 

19 Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai? “20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.”

21 Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.”

22 Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông? “23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.

24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. 25 Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?26 Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”

28 Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

----------------------*************----------------------

Tiền nguyện: Xin cho mọi tư tưởng, lời nói và hành động, từ ngoại tại đến nội tại của con, đều quy hướng về việc phụng sự, ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa.

Khung cảnh: Hãy hình dung khung cảnh bên bờ sông Giodan, nơi có đông đảo người đến để xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Trong số đó, có một số người đến để tra vấn về việc làm của Gioan Tẩy Giả. Kế đến, đó là những hồi đáp và chứng từ của Gioan về Chúa Giêsu.

Ơn Xin: Xin Thiên Chúa cho con có cảm nhận thâm sâu về Chúa Giêsu, Đấng đã làm người vì con để cứu chuộc con, để con yêu mến và bước theo Ngài sát gót hơn. Xin Chúa cũng cho con nhận ra những “dấu chân” âm thầm mà Ngài song hành cùng con qua mỗi chặng đường đời vừa qua, nhờ “dấu chân hòa bình” của Chúa con biết đem lại bình an, hạnh phúc và hy vọng cho mn.


 

Một vài gợi ý cho bài cầu nguyện

1.     Diễn nghĩa bản văn Tin Mừng

Bối cảnh bản văn Tin Mừng trên (Ga 1, 19-28) thuật lại cho ta những chứng từ của thánh Gioan Tẩy Giả. Sau khi ăn chay và cầu nguyện thời gian dài trong sa mạc, Gioan TG bắt đầu sứ vụ công khai của mình bằng việc kêu gọi toàn dân ăn năn sám hối và chịu phép rửa (chịu phép rửa là dấu chứng). Gioan khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là tiếng hô trong hoang địa và lặp lại lời của Isaia năm xưa “hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”.

Hành động trên của Gioan đã khiến nhiều người thắc mắc, tò mò và đến tìm gặp ông. Có thể một số người được cảm hóa bởi lối sống khắc khổ, nhiệm nhặt của Gioan và thấy được sự thánh thiện và uy quyền trong lời giảng dạy. Cụ thể, nhiều người đã đến xin ông Gioan làm phép rửa tại sông Giodan. Thậm chí, rất đông đảo người đứng xếp hàng tại bờ sông.

Sự việc trên đã thu hút chú ý của người Do-thái, đến nỗi các nhà lãnh đạo tôn giáo, giới cầm quyền lúc đó phải cử người đến tra vấn hành vi của Gioan. Trước hết, người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai? Ông có phải là Ê-li-a không? Ông có phải là Đấng Kitô hay vị ngôn sứ nào đó không?”. Gioan khiêm tốn trả lời: “Không, tôi không phải Đấng Kitô, tôi là tiếng hô trong hoang địa, hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi”.

Kế đến, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu đến hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Gioan trả lời họ rằng: ““Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.””

2.   Suy niệm và cầu nguyện

Dấu chân nào đi qua đời tôi?

Khi chiêm ngắm hình ảnh Gioan Tẩy Giả từ trong sa mạc đi ra, ta có thể hình dung thấy một người khắc khổ, nhiệm nhặt, thiêng liêng và thánh thiện. Ông ăn châu chấu và mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da. Từ sa mạc đi ra sông Giodan, có thể có những dấu chân in hằn trên cát. Những dấu chân của một ngôn sứ chính trực và khôn ngoan.

Ở đây, ta không chỉ nhìn vào dấu chân thực tế, thể lý của Gioan in hằn trên đất cát, nhưng sâu xa hơn, ta thấy được những dấu ấn in đậm trong tâm khảm dân chúng của Gioan. Thời nào cũng thế, tội lỗi và thế lực sự dữ luôn rình rập và xâm chiếm lòng người, nó khiến con người dễ khuynh chiều theo điều xấu xa, thỏa mãn, ích kỷ… Lời mời gọi ăn năn sám hối của Gioan đã khiến nhiều người được đánh động và muốn trở lại đường ngay lẽ chính với Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã dùng hình ảnh, “dấu chân” của Gioan Tẩy Giả để mời gọi, lôi kéo dân chúng về với Ngài. Thực ra, Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, nên Ngài luôn muốn tìm cách đưa con người quay về với tình yêu thương, cụ thể qua những cách thức khác nhau. Thiên Chúa có thể nói với chúng ta qua các vị hữu trách của Giáo Hội như ĐGH, GM, LM, Tu sĩ, Giáo Dân, hay những người lương dân, thậm chí là những người nghèo hèn, khốn khổ và tầm thường… mà ta gặp gỡ, tiếp xúc hằng ngày.

Thực ra, nếu nhìn cuộc đời như một con đường khởi sự từ chiếc nôi và đi đến nấm mồ, thì có lẽ mỗi người sẽ có một con đường dài ngắn, rộng hẹp, trơn tru hay gập gềnh khác nhau. Trên con đường đó, ắt hẳn sẽ có những ‘dấu chân’ đi qua, có thể nhiều, có thể ít… Con đường đời của mỗi người có thể có những ‘dấu chân’ đồng hành của cha mẹ, bạn bè, thân hữu… cùng song hành. Dù rằng những dấu chân đồng hành đó, có thể dài hay ngắn, nhưng ít ra, những dấu chân đó đã cùng ta đi một quãng đường đời.

Những dấu chân đồng hành đó, có thể mang lại cho tôi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, chẳng hạn đó là những niềm vui, nỗi buồn, nhưng an ủi, sầu khổ, những lời khích lệ, đông viên, đồng cảm… hay thậm chỉ là những lời chê bai, xoi mói, khinh thường, dèm pha, miệt thị, hạ bệ, bách hại, vu khống… tất cả đều cho tôi cảm nếm và lớn lên hơn hay vùi dập cuộc đời tôi?

Với cái nhìn Đức Tin, tôi tự hỏi: có khi nào tôi nhận ra “dấu chân của Thiên Chúa” đi qua cuộc đời tôi chưa? Dấu chân của Chúa có thể là những ân sủng, những quyết định quan trọng của cuộc đời được Chúa soi sáng, hay đó là những phép lạ nhãn tiền khi ta xém bị chết hụt mấy lần vì tai nạn giao thông, đuối nước hay một nguy biển sinh tử nào đó…? Ta thử lặng im, lắng nghe lòng mình, nhìn sâu kỹ, chậm rãi, hồi tưởng về cuốn phim cuộc đời… để nhìn xem Chúa đang đi cùng ta như thế nào? Dấu chân Ngài in đậm ra sao? Ta có thấy ngọt ngào vì điều đó không?

“Dấu chân hòa bình của Gioan”

Những năm tháng gần đây, chiến tranh giữa các quốc gia ngày càng nhiều, đặc biệt các cuộc chiến ngày càng leo thang như Nga và Ukraina đang dần tiến tới chiến tranh hạt nhân. Khi chiến tranh xảy ra, người chịu thiệt hại nhiều nhất chính là người dân, đặc biệt những người nghèo hèn, khốn khổ. Họ mất đi cuộc sống hằng ngày, thay vào đó là những cuộc tị nạn, bấp bênh, chênh vênh vì đói khổ, bệnh tật… Nỗi bất an luôn chìm ngập cõi lòng.

Như một người bị đuối nước giữa biển khơi, khi bám víu vào được chiếc phao, dù chỉ nhỏ nhoi, có lẽ họ sẽ rất vui mừng và hạnh phúc. Tôn giáo là một trong những niềm hy vọng của con người, dù rằng Karl Marx nói: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh về bề dày, bề sâu, sự quan trọng của tôn giáo đối với đời sống tâm linh con người.

Dân Do Thái năm xưa đã sống trong cảnh khổ đau, cùng khốn bởi đế quốc La Mã đô hộ, họ dường như đã mất tự do, bất an…và rất mong chờ “Thái Tử Hòa Binh"[1] đến giải thoát chúng sinh. Những hình ảnh, dấu chân của Gioan Tẩy Giả là những niềm hy vọng và hòa bình cho dân chúng. “Dấu chân hòa bình” ấy đã đem lại ánh sáng hy vọng cho nhiều người.

Thời nay cũng thế, tại VN trong những tháng ngày vừa qua, hiện tượng thầy Thích Minh Tuệ cũng là một dấu chứng khiến nhiều người suy nghĩ và phản tỉnh. Tại sao nhiều người lại tìm đến, đi theo, ngưỡng mộ, phục bái thầy MT như vậy? Giữa xã hội đầy những tha hóa, đời tu tục hóa, một vị tu sĩ xuất hiện, sống khó nghèo, khiêm hạ, từ bi, hỉ xả… thầy MT nói: “còn duyên đi tu, có phúc đức báo hiếu mẹ cha, giờ thì mọi người là cha mẹ, là anh em… nên dù ai đánh con, dù ai chửi con thì con vẫn chúc hỉ hoan … con đi tu con cầu giải thoát, cơm hằng ngày một bữa xin ăn, áo con mặc vải lượm mọi nơi, tiền người cho con không dám nhận đâu.”

Dấu chân của Gioan Tẩy Giả, của thầy Minh Tuệ làm cho nhiều người thời xưa và thời nay cảm thấy có niềm tin yêu, hy vọng, bình an và hạnh phúc ở cuộc sống này. Có lẽ người hạnh phúc nhất khi tâm hồn họ chất chứa bình an và đong đầy hòa bình. Xin Thiên Chúa cho ta có cảm nhận thâm sâu về tình yêu Chúa qua các dấu chân bình an, hòa bình mà Ngài gửi đến với chúng ta qua những người thân yêu xung quanh. Để nhờ ơn Chúa, ta sống đời bình an nội tâm sâu xa và đem niềm vui và hòa bình đến cho mọi người.

Câu hỏi phản tỉnh:

Tôi có cảm thấy bình an và hòa bình trong tâm hồn ngày lúc này? Điều gì làm tôi bình an và đâu là điều khiến tôi bất an?

Tôi có đem bình an sâu thẳm trong tâm hồn đến cho những người xung quanh không? Tôi có gieo rắc hòa bình hay những chiến tranh, nghi kỵ, chia rẽ giữa mọi người với nhau không? Nếu có, tôi thành tâm xin Chúa tha lỗi và quyết tâm hoán cải, đổi mới đời sống hơn.

Để có được hòa bình, hạnh phúc, niềm vui trong tâm hồn, tôi rất cần tương quan mật thiết, sâu đậm với Chúa Giê-su, “Thái Tử Hòa Bình”. Xin Chúa cho ta có được tình yêu mến sâu đậm, niềm hy vọng sâu xa và một con tim sâu lắng để cùng nhịp đập yêu thương với Ngài, đem hòa bình đến cho mọi người xung quanh. Amen.        *  *  *



[1] R. Alleluia, alleluia. The Lord will come; go out to meet him! He is the prince of peace.