Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 11 tháng 12, 2025

HỮU-THỂ-HƯỚNG-VỀ-SỰ-CHẾT

 HỮU-THỂ-HƯỚNG-VỀ-SỰ-CHẾT

Ý nghĩa tồn tại của Dasein trong “thời tính” và nỗi khắc khoải của Dasein về hiện-hữu-cận-lân và hiện-hữu-cho-đến-chết



Dẫn nhập

Trong số các trước tác kinh điển của Heidegger, nổi bật hơn cả là tác phẩm “Being and time” (1927). Tác phẩm này được Heidegger đặc biệt lưu tâm đến vấn đề hữu thể (being ), ông cho rằng cần thiết để nghiên cứu cụ thể, rõ ràng mục đích của câu hỏi về hữu thể, đồng thời cũng cần làm rõ mục đích câu hỏi này để làm gì? Ai đặt vấn đề và đặt ra với mục đích gì? Từ tự vấn đó, trong Being and time, Heidegger đã triển khai một số đề mục then chốt như: Hữu thể ở đây và phương pháp phân tích hiện sinh; Con người với tư cách Hữu thể-trong-thế giới (In - der - Welt - sein); Hiện hữu cho tới chết; Hiện hữu bản chân và phi bản chân; Nhìn thẳng vào thực tại để đối mặt với nỗi sợ hãi và thời gian; …”

Có thể nhận định rằng ngang qua tác phẩm Being and Time, Heidegger đã phê phán siêu hình học trước đó kể từ thời Aristotle đến Hegel và Nietzsche, khi họ đã phân tích hữu thể đi theo hướng sai lệch vì đã biến siêu hình học thành vật lý học. Do đó, Heidegger muốn giải cấu (destruction) và đưa vấn đề siêu hình học về đúng trọng tâm của nó với ý nghĩa đích thực nhất, nghĩa là đừng lãng quên câu hỏi về hữu thể nhưng hãy lưu nhớ đặc biệt về hữu (l’être) và hữu thể (l’étant). Thực tế, chúng ta thấy từ thời hậu Heidegger, phần đa các triết gia đề cập đến “hữu thể luận” hơn là “siêu hình học”. 

Tác phẩm Being and time chủ yếu là một nghiên cứu sâu rộng để: Bình giải về câu hỏi về ý nghĩa của hữu thể (Exposition of the question of the meaning of being): Trong đó bao gồm hai đề mục lớn là: Tính tất yếu, cấu trúc và ưu tiên của câu hỏi về hữu thể (The necessity, structure, and priority of the question of being); và Nhiệm vụ kép trong việc triển khai câu hỏi về hữu thể (The twofold task in working out the question of being). Đề mục thứ hai này bàn về những vấn đề như: Phân tích nền tảng của Dasein (gồm Hữu thể trong thế giới nói chung là trạng thái cơ bản của Dasein; Hữu thể trong thế giới với tư cách là hữu thể với và hữu thể là chính mình: Một cách tiếp cận câu hỏi hiện sinh về “ai” của Dasein; Dasein với hữu thể khác và Dasein với thường hằng (The Dasein-with of Others, and everyday Being-with); Mối bận tâm về sự hiện hữu của Dasein), và Dasein và thời tính (gồm Khả thể tính của Dasein về hiện hữu tổng thể và Hiện hữu cho đến chết (Dasein’s Possibility of Being-a-Whole and Being-Towards-Death))...

Trong bài viết này, chúng tôi nỗ lực tìm hiểu về Nỗi khắc khoải của Dasein trong thời tính, và Dasein với Hiện-hữu-cận-lân và Hiện-hữu-cho-đến-chết. Cuối cùng là một vài ghi nhận tóm kết của của người viết bài.

1. Ý nghĩa tồn tại của Dasein trong “Thời tính” (“Zeitlichkeit”)

Có lẽ khi mang thân phận con người được hiện hữu và hiện diện trên cõi đời này, ta không tránh khỏi những lúc khắc khoải, âu lo về một điều gì đó. Heidegger đã ý thức sâu xa về điều đó, nên ông tìm hiểu sâu kỹ về ý nghĩa hiện hữu của Dasein (Da: có đó, Sein: hiện hữu) cùng với nỗi khắc khoải của nó. Heidegger cho rằng chính trong khắc khoải, lo âu thì ánh sáng sẽ khai minh, chiếu soi tâm trí ta về sự hư vô của mình. Từ hư vô được hiện hữu trong thế giới, rồi từ thế giới đó sẽ trở về với sự hư vô, đây là yếu tính của sự hiện hữu của Dasein. Nỗi ưu tư, khắc khoải, lo âu như một quyền lực buộc Dasein phải lắng nghe, tìm kiếm sự thật với tự do nội tại. Bởi lẽ, sự trống rỗng nơi hữu thể chất chứa khả thể cần được lấp đầy trọn vẹn. Nói chung, con người ‘ưu tư’ về chính mình, không theo nghĩa luân lý, mà là nghĩa hữu thể. Vậy, chính trong thời gian thinh lặng, khi đối diện với sự trống rỗng, hư không, buộc ta phải ưu tư về thân phận con người, Heidegger coi đó là cốt lõi của hiện hữu nhân sinh.

Trước hết, tại sao thời gian làm cho ta trở nên ưu tư? Trong tác phẩm Being and time, Heidegger đã khẳng định hữu thể là thời gian, hữu thể phải đi liền với thời gian tính, nghĩa là Dasein trải qua quá khứ, hiện tại và tương lai.  Hơn nữa, Heidegger đã nghiên cứu kỹ lượng về hiện tượng ‘ưu tư’ (boredom) trong tác phẩm Những Khái Niệm Nền Tảng về Siêu Hình Học (The Fundamental Concepts of Metaphysics), và ông đã tìm thấy rõ yếu tính của ‘ưu tư’ và xem nó như là một phương thức hiện hữu của con người. Thật vậy, ông cho rằng có hai nguyên nhân cơ bản của ưu tư nơi ta, một là đến từ thời gian và hai là đến từ sự trống rỗng.  Có khi, Dasein mặc lấy sự ưu tư như bị thời gian quên lãng trong tình trạng lơ lửng (being help in limbo) giữa hai thời khắc quá khứ với hiện tại, và hiện tại với tương lai. Có thể nói Dasein bị nhuộm màu thời tính (Zeitlichkeit) và lệ thuộc vào nối tiếp quá khứ, hiện tại và tương lai. Cả ba thời khắc đó đan xen lẫn nhau, dường như chúng lôi kéo, đàn áp, dồn nén Dasein khiến nó cảm thấy tê liệt.  Dasein mặc lấy sự trống rỗng (being left empty), bởi vì nó cảm thấy các sự vật bỏ rơi và không màng đến sự hiện hữu của chính nó. Vì thế, Dasein cảm thấy sự trống rỗng trong thời gian lơ lửng đó. 

Khi bàn về khái niệm “thời gian”, ta thấy khái niệm này vốn không xa lạ với các triết gia từ thời Anaximander (triết gia tiền Socrates) cho đến Henri Bergson (1859-1961), nhưng có thể nói Heidegger đã xem thường cách hiểu của các triết gia này khi họ quan niệm cách ngớ ngẩn, ngây thơ về “thời gian” (như sự biến dịch, sự trở thành) là cái đối lập với “hữu thể” (being), nghĩa là cái bất biến, vĩnh cửu đối lập với cái phi-thời-gian và cái siêu-thời-gian.  Heidegger cho rằng không thể hiểu về “hữu thể và thời gian” (being and time) như là một cái bình chứa đựng một vật gì đó, nghĩa là hữu thể nằm trong thời gian, và xem đó là điều hiển minh không cần tra vấn. Cách hiểu “thời gian” như thế đã ‘cắt giảm’ và giản lược thành hữu thể “ở trong” thời gian, nhưng thực tế, không chỉ “ở trong” thời gian mà “hữu thể cần được hiều từ thời gian”, theo thời tính của bản thân hữu thể.  Điều này minh giải cho cái “vô-thời-gian” và “siêu-thời-gian” cũng có thể được suy tưởng từ bối cảnh hay hậu cảnh là thời gian, một thể cách của thời gian mà thôi. Luận điểm then chốt này được Heidegger triển khai ngày trong phần I, chương 3 và 4 của tác phẩm “Being and time” (ông phân biệt rõ “tồn tại trong thế giới” (Sein innerhalb der Welt/ Being within the world) của những cái tồn tại “có-đó” và “Tồn-tại-trong-thế-giới” (“In-der-Welt-sein”/ “Being-in-the-world”) như là nét phổ sinh chủ yếu của Dasein).  Cụ thể, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn mối liên hệ của Dasein trong thời tính ở các phần dưới đây.

Trước hết, ta cần phân biệt thuật ngữ “Thời gian tính” (Temporalitӓt) liên quan đến mọi thể cách tồn tại khả hữu của bản thân hữu thể và thuật ngữ “Thời tính” (Zeitlichkeit) chỉ dành riêng cho thể cách của Dasein, vốn được đặt cơ sở trên “Thời gian tính”.  Xét về mặt hữu thể học, thứ nhất Dasein là thời tính, nghĩa là luôn có sự hiểu biết về hữu thể; thứ hai Dasein hiện hữu một cách thời tính, hiểu theo nghĩa là nói về hữu thể thì cũng cần nói về thời gian. Sự hiện hữu được thể hiện trọn vẹn khi nó lệ thuộc vào thời gian tính (temperative), nghĩa là hữu thể được đặt nền tảng trong thời gian tính (Being is grounded in temporality).  Ví dụ, khi nói về Martin Heidegger (1889-1976) thì cũng kèm theo năm sinh và năm mất của ông, để hiểu rằng Heidegger đã hiện hữu trong khoảng thời gian đó. Với Heidegger, Dasein hiện hữu và được tỏ lộ trong thời tính với những tại thể khác trong thế giới và đảm nhận cuộc sống của mình. Ngoài thời gian thì mọi ý niệm về hữu thể đều vô nghĩa. Chính vì thế, hữu thể luôn đi kèm với thời gian (being and time).  Do đó, Heidegger gọi thời gian là “chân trời của mọi sự hiểu biết về hữu thể”.  Đây là vấn đề cốt lõi của hữu thể học mà Heidegger muốn xây dựng.

Ta thấy rõ quan niệm về thời gian của Heidegger khác hẳn quan niệm của Kierkegaard: Kierkegaard tin rằng có một bước nhảy vọt về phẩm chất (qualitatif) và thời gian sẽ thay thế bởi vĩnh cửu (éternité); trái lại, Heidegger cho rằng thời gian tính chỉ gồm có cuộc hiện sinh ta đang có và nhờ đó ta khám phá cho mình ý thức về sự hiện hữu của mình.  Thời gian không có cùng tận, nhưng chính vô cùng tận tính ấy lại là một chuỗi liên tiếp những biến cố được kéo dài từ quá khứ đến hiện tại, và tương lai của Dasein. Bản tính hiện sinh nơi Dasein luôn hàm chứa sự thiếu thốn cái gì đó, đó là tính hữu hạn. Trong cuộc hiện sinh, Dasein đảm nhận lấy nơi chính mình một định mệnh, đó là sống trong thời gian và khắc khoải lo âu để tìm ra ý nghĩa của hiện hữu. Chính trong lo âu (angst), con người tìm gặp bản chất sâu xa của chính mình, không phải một cảm giác xa đọa cho bằng cảm thấy thực thụ tính của chính mình trong thời gian.

Để mở rộng thêm vấn đề, thiết nghĩ ta cũng cần đề cập thêm một chút về Dasein và thời tính trong phần V, Thời tính và Sử tính (Being and time, V. Temporality and Historicality), Heidegger quan niệm rằng Dasein có quyết hướng tính (Entschlossenheit, determination: khả năng quyết định điều gì đó) khi đối diện với chính mình, quyết hướng tính đó hướng cận về tương lai dù rằng tương lai sau cuối sẽ trở thành quá khứ, khi Dasein như nó đã là. Chỉ có những gì xuất hiện nơi hiện thể mới đưa khả tính cho thể quyết tính trong nhất thể tính của Dasein, khi đó, thời tính (Zeitlichkeit) là ý nghĩa của ưu tính và hiện hữu, bởi lẽ thời tính là xuất hóa tính và là ngoại quá nguyên sơ (Ursprüngliche Asser-sich). Vậy, quá khứ, hiện tại và tương lại, tất cả đều là “xuất hóa thể” (Ekstasen, ecstasies,extases) của thời tính, trong đó với Dasein, tương lai là yếu tố dẫn đầu.  Ta có thể thấy, mọi sự vật được lý giải trong thời gian tính bởi lẽ chúng khả dĩ. Dasein cũng không ngoại lệ, nhưng Dasein hiện hữu, tự nơi mình, nó có khả năng khoáng trương (Dasein need an extensive ability). Heidegger gọi là là “diễn tính” (Geschehen, happen, arriver) của Dasein, khi vận tính dành riêng cho sự khoáng trương của thể tính, và vén mở cơ cấu của diễn tính thiết lập nên lý giải về sử tính (Geschichtlichkeit). Lúc đầu, Dasein được Heidegger xem như là lịch sử, nhưng sau đó, với thể hướng nội, và cả thế giới, ông xem Dasein khi hiện hữu như là thời hóa (Zeitigen). Nghĩa là thời hóa khi Dasein hiện hữu trong thế giới (hữu-tại-thế).  Từ suy luận đó, Heidegger khai triển một lý thuyết về thời thể.

Tựu trung, khi nói về vấn đề thời gian, Heidegger cho rằng: "Thời gian là sự cảm thụ thuần tuý về mình. Chính thời gian tạo thành cái đích để tung mình về phía trước và do vậy, thời gian làm nên kết cấu căn bản của chủ thể tính".  Nghĩa là theo Heidegger, thời gian không là gì khác hơn ngoài thời tính (temporalitaet) và Dasein là cái kiến tạo nên thời gian. Chỉ khi con người hiện hữu thì thời gian mới trở nên có ý nghĩa, tự bản chất con người là phóng ném mình về phía trước, hướng mình về tương lai, hoặc cũng có thể ‘phóng ném’ mình về phía sau. Heidegger cho rằng khả thể ‘phóng ném’ này của con người đó là thời tính. Bởi lẽ, nơi bản chất sâu xa của con người, là hiện hữu và hiện diện trong thế giới nhưng luôn mang trong mình nỗi niềm nhớ nhung quá khứ trong phút giây hiện tại, và ước vọng, hướng tâm trí về tương lai. Do đó, Heidegger cho rằng “chúng ta chỉ là cái mà chúng ta đã là”.  Thế nhưng, với thời tính, Dasein không chỉ dừng lại ở khả thể ‘phóng ném’, nhưng sâu thẳm bên trong, Dasein còn chất chứa những nỗi khắc khoải, ưu tư về sự hiện hữu của mình, một hiện hữu với cái gì khác mình và hiện hữu cho đến khi nào? Phải chăng là hiện hữu cho đến chết là hết đời Dasein? Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này trong đề mục tiếp theo.

2. Nỗi khắc khoải của Dasein với hiện-hữu-cận-lân và hiện-hữu-cho-đến-chết

Càng đào sâu hơn về nỗi ưu tư, khắc khoải của Dasein, Heidegger càng cho rằng yếu tính của hữu thể là hiện hữu vì (esse per) cái gì đó, hiện hữu để làm cái gì đó. Ở đây, ông cho rằng Dasein hiện hữu vì và với các tại thể khác, đồng thời nó cũng hiện hữu cho đến cái chết, là cái cùng tận của hữu thể (the end of being-in-the-world is death).  Chúng ta cùng tìm hiểu ý nghĩa về sự hiện hữu của Dasein với nỗi ưu tư về hiện-hữu-cận-lân và hiện-hữu-cho-đến-chết trong các phần dưới đây.

Hiện-hữu-cận-lân (Seinsverhaltnis, Being-with-one-another, Rapport d'être). 

Dasein hiện hữu cùng các tại thể khác (Fürsorge), giữa chúng có sự hỗ tương lẫn nhau, đó là sự trao thông, bận tâm” (besorgen) lẫn nhau. (In Being with and towards Others, there is thus a relationship of Being [Seinsverhaltnis] from Dasein to Dasein.)  Trong thế giới này, Dasein không chỉ dừng lại nơi các sự vật hiện hữu, nhưng còn giữa con người với nhau (Mitdasein), đây là tinh thần liên đới (solidality), tương thân (sympathie) nơi Dasein. Thật vậy, để củng cố hơn cho ý niệm này, Heidegger đã nhận định: "Hiện hữu là tự vượt qua mình để đạt tới cái khả hữu của mình. Tự vượt mình là bỏ cái mình hiện nay để đi tới một hiện hữu đang ẩn hiện trước mắt mình. Cái hiện hữu ẩn hiện trước mắt con người - đó là khả hữu (sein-koennen, pouvoir-être)". 

Do đó, hiện-hữu-cận-lân chính là phương cách hiện hữu loại biệt của Dasein, nó mang ý nghĩa của hữu thể nơi cội nguồn, nghĩa là hiện hữu này với hiện hữu kia cùng hỗ tương, khi cả hai cùng mang chiều kích nguồn cội (co-originalité). Hiện-hữu-cận-lân mặc lấy chiều kích hiện sinh của Dasein khi nó hệ tại nơi tính liên-chủ-thể (tôi-tha nhân). Chính trong chiều kích liên chủ thể đó - một “hữu-thể-kề-cận” - sẽ mở lối giúp chúng ta được trở về với chính mình, gặp gỡ chính mình cách tiên thiên và chân thật nhất (Omne ens est verum: mọi tại thể đều chân thực). Sở dĩ hai cục đá nằm kề cận nhau thì khác hẳn hai người đồng hành với nhau, đó là sự khác biệt giữa “res extensa (vật vô tri)” với “res cogitans (con người có suy tư)”. Đây cũng chính là điều mà Heidegger gọi là Bewandtniszusammenhang (các hữu thể liên kết với nhau để tạo nên thế giới tính, hiểu theo nghĩa hiện tượng luận).  Cách chung, vấn đề của hữu thể hiện sinh là chiều kích liên-chủ-thể. Đồng thời, hữu thể “xuất cư” nơi Dasein có siêu việt tính, không gì khác hơn là hiện-hữu-giữa-thế-giới. Chính khi siêu việt tính được thi thố, được phô diễn thì là một cách thức giải thoát Dasein với sự tự do, thanh thản nơi cội nguồn, sức mạnh đích thực tuôn trào và nhờ đó Dasein có thể quay về phía sự vật với một phong thái cần có.

Tuy nhiên, khi Dasein hiện-hữu-kề-cận, hướng mình về các tại thể khác, Heidegger cho rằng Dasein phải đối diện với hai khả thể là hiện hữu phi chân (inauthentic) và hiện hữu bản chân (authentic). Hiện hữu phi chân là Dasein bị vong thân (lostnes) trong thế giới với cái thường hằng mà nó bị ảnh hưởng, Dasein không có tự do và trách nhiệm nên nó mặc lấy sự sợ hãi và trốn lánh cái chết. Đang khi đó, hiện hữu bản chân là Dasein tìm lại chính mình trong cái thường hằng, đảm nhận chính mình và đón nhận cái chết hoàn toàn với sự ý thức thực sự. Đây mới là ý nghĩa của sự hiện sinh đích thực, theo cái nhìn của Heidegger.  

Thật vậy, với Heidegger để Dasein hiện hữu bản chân, mặc dù hướng mình về tha thể, nhưng nó cần không lệ thuộc và rút khỏi tha thể như chọn lựa khả dĩ để hiện hữu trung chính nhất. Ông cho rằng đây là khả tính của Dasein, nó khởi đi từ ý thức (gewissen), đáp lại lời mời gọi, thôi thúc không ngừng nơi cội nguồn của Dasein, nó từ khước nghe theo lời phiếm luận từ tha thể. Tiếng nói sâu thẳm nơi cội nguồn đó, Heidegger cho rằng không hẳn đến từ thế lực xa lạ, cao siêu (như Thượng Đế chẳng hạn), nhưng từ ưu việt tính, nghĩa là Dasein ưu tư về khả tính của chính mình.   Như đã trình bày bên trên, trong sự trầm mặc, ưu tư, khắc khoải mà khả tính nơi Dasein được khơi lên, cái mà vốn tiềm tàng nơi thể tính của chính nó. Khả tính đó với khả năng tự do nơi Dasein đó là “quyết tính” (Entschlossenheit: khả năng quyết định vấn đề nào đó), thậm chí với tử vong tính (nghĩa là có khả năng đón nhận cái chết của chính mình). Heidegger cho rằng chỉ có quyết tính mới làm cho Dasein thoát ly khỏi sự chi phối của tha thể, rời xa tình trạng hiện hữu phi bản chân ngu muội, vốn tiềm tàng nơi chính mình. Với quyết tính, con người can đảm đón nhận định mệnh cuộc đời và phóng mình về tha nhân với tất cả tha thể tính của họ, với sự bình tâm và chân thực. 

Hiện-hữu-cho-đến-chết (Sein zum Tode, being unto death, être jusqu'à la mort). 

Khi hiện hữu trong thế giới, Dasein mặc lấy sự ưu tư, khắc khoải về tự thể của chính mình, về ý nghĩa hiện hữu với lời mời gọi thẳm sâu là hướng về tha thể (man/ one), đôi khi còn tìm chỗ trú ngụ nơi đó. Heidegger cho rằng hiện hữu mà Dasein bị thao túng, bị ru ngủ, cám dỗ, tha hóa bởi tha thể thì đó là hiện hữu của Dasein ở thể-bất-chính, tầm thường, phi chân. Thậm chí, Heidegger còn gọi là “nó ngoại hiện trong phiếm luận (Gerede)” , nghĩa là bỉ ngôn của tha thể quyến rũ và trở thành thực tại cho Dasein. Điều này khiến Dasein bị xáo động, tiêu thoát, hàm hỗn, loạn tri (không còn phân biệt điều gì biết với điều không biết), ông còn gọi đó là sự thoái đọa (Verfallen) của Dasein. Nếu Dasein không tự thoát ly, khước từ lời ‘ru ngủ’, ‘bỉ ngôn’ của tha thể thì nó sẽ thoái trào, xa đoạn và chìm ngủm trong thế giới vô minh. Vô minh cũng có thể hiểu là Dasein vì quá ưu tư, lo lắng, sợ hãi về cái chết khiến nó hiện hữu bất-chính-thể, phi chân (non-vérité). Thậm chỉ, có lúc tha thể dùng ‘bỉ ngôn’ đề chèo khéo khiến Dasein không dám đối diện với cái chết, thậm chỉ là nói trống không về sự chết như là “người ta chết”  (one dies, man stirbt).

Thế nhưng, Heidegger cho rằng dù muốn dù không, ta cũng phải thừa nhận rằng khả thể đặc thù của hữu thể là cái chết, thật vậy, ông quan niệm: “xét theo bản thể học, sự chết được thiết lập bởi thuộc-ngã-tính (mineness) và hiện hữu”.  Đối với người sống, cái chết ở dạng tiềm thể, nhưng khi con người tiếp cận cái chết thì nó là hiện thể, khi đó, con người sẽ cảm thấy sự tồn hữu đích thực nơi bản thân, khi cái chết là phận vụ cuối cùng mà mình phải đảm nhận. Nhưng, sự chết theo Heidegger là cuộc hiện sinh không tan biến thành hư vô một cách vô nghĩa, nhưng đó là một cuộc hiện hữu cho đến tận cùng của Dasein (Sein zum Ende), hiện hữu cho hư vô (Sein zum Niehts), hiện hữu cho đến chết (Sein zum Tode) . Ngày nào Dasein còn hiện hữu thì nó chưa đạt được “viên tính” của chính mình, vẫn còn khuyết tính nào đó. Do đó, có thể nói sự chết là cứu cánh của Dasein, và tử thể nơi Dasein cũng chỉ là để hướng về tử thể (l’Être même du Dasein est l’être-pour-la-mort). Một lần nữa, đây chính là cách thế hiện hữu cơ bản và ý nghĩa của Dasein. 

3. Tóm kết

Như Lévinas viết rằng Sein und Zeit của Heidegger “nhằm mục đích mô tả hữu hoặc hiện hữu người, chứ không phải bản chất của anh ta”.  Từ quan điểm này, cùng những phân tích trên, ta nhận thấy triết học của Heidegger chủ yếu nhắm đến việc giải thích mối quan hệ giữa hữu và hữu thể, cụ thể là hữu thể luận nền tảng và Dasein-sự diễn đạt kinh nghiệm (nơi hiện hữu người). Nhìn cách tổng quan, ta thấy con đường hữu thể học mà Heidegger dẫn ta đi là phương pháp hiện tượng luận, nghĩa là các hữu thể chỉ xuất hiện trong các hiện tượng, trong những vật mà yếu tính chỉ là xuất hiện (das Sich an ihm selbst zeigende). Điều đặc biệt là khi nghiên cứu về Dasein, ông không đi theo cái gì tổng quát và bền bỉ nữa, nhưng là nghiên cứu về các giai đoạn biến dịch của Dasein. Nội dung chính của Being and time cũng chỉ quy hướng về phân tích ấy. 

Cách chung, khi bàn về hữu thể là bàn về cách thế xuất hiện của hữu thể trong những trạng thức của “vật hiện hữu tại đó’. Yếu tính của hữu thể là ở sự hiện hữu của nó, tại đó, chứ không hẳn nghiên cứu về những sự nó gồm có. Còn khi bàn về Dasein thì cũng có nghĩa là bàn về thời tính, nghĩa là luôn có sự hiểu biết về hữu thể; thứ đến, Dasein hiện hữu một cách thời tính, hiểu theo nghĩa là nói về hữu thể thì cũng cần nói về thời gian. Bởi lẽ, chỉ khi con người hiện hữu thì thời gian mới trở nên có ý nghĩa. Heidegger gọi thời gian là “chân trời của mọi sự hiểu biết về hữu thể”.  Đây là vấn đề cỗt lõi của hữu thể học mà Heidegger muốn xây dựng.

Tóm lại, khi nói về nỗi khắc khoải, ưu tư của Dasein và hiện-hữu-cận-lân cũng như hiện-hữu-cho-đến-chết thì ta có thể hiểu cách khái quát là theo quan niệm của Hedegger, tự nơi cội nguồn thẳm sâu, với hiện hữu của chính mình, Dasein có lời gọi mời đó là sự quan tâm.  Sự quan tâm đó khởi đi từ hiện-hữu-thiếu-hụt (being with a lack) cái gì đó.  Do đó, Dasein luôn hướng về tại thể khác trong hai tâm thế vừa là kẻ gọi (caller) và vừa được gọi (called), Dasein gọi tại thể khác và tại thể khác cũng đang kéo gọi Dasein để cả hai được trở nên hiện hữu bản chân cho chính mình.  Trong khi phóng ném chính mình về tại thể khác, tự nơi mình, Dasein có một cảm-thức-hoài-hương ẩn khuất sâu kín nơi cội nguồn của nó.  Điều này thúc bách để Dasein tự do chọn lựa và sống sự chọn lựa ấy đó và Heidegger gọi khả thể khởi phát đó là từ lương tâm và ông gọi nó là quyết tính. Quyết tính của Dasein cũng chỉ là lời đáp lại tiếng gọi và sự thúc bách sâu thăm mang tính huyền nhiệm, mà Hedegger đã đề cập trong tác phẩm Buông Xả Thanh Thản. Kỳ lạ thay, khi gần về cuối đời, Heidegger cảm nhận sâu sắc được lời mời gọi huyền nhiệm đó chính là tiếng nói của Thượng Đế, ông nói rằng “Only God saves us-Chỉ có Thiên Chúa mới cứu chúng ta”.  

Tác giả: Minh Đức SJ

Bibliography

Jean Grondin, Introduction to metaphysics: from Parmenides to Lévinas, translated by Lukas Soderstrom, New York: Columbia University Press, 2012.

Martin Heidegger, The Fundamental Concepts of Metaphysics – World, Finitude, Solitude, trans. William McNeill & Nicholas Walker, Bloomington: Indiana University Press, 1995.

http://www.triethoc.edu.vn

M.Heidegger. Kant et le problème de la métaphysique. Paris.

Trần Thái Đỉnh. Triết học hiện sinh. Nxb Văn Học, 2008

Đậu Văn Hồng, Dẫn vào Hữu Thể Luận, Tra vấn chức năng Meta, Tài liệu triết học, lưu hành nội bộ, 2005

Emmanuel Lévinas, Ethics and Inginity, translated by Richard A. Cohen, (Pittsburgh: Duquesne University Press, 1985

Heidegger, Martin. Being and Time. 7th. Translated by John Macquarrie and Edward Robinson. Oxford: Blackwell Publishers, 2001.

24.11.2025

A.M.D.G

Minh Đức, SJ

Lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

TỰ DO NHƯ CHÚA GIÊSU


 

Lạy Chúa Giêsu!

Khi chiêm ngắm cuộc đời Ngài,

Con thấy Chúa thật tự do.

Từ ngàn đời Chúa đã yêu con,

dù biết rằng tình yêu đó sẽ bị từ khước.


Chúa đã tự do đến với thế gian,

dẫu thế gian đôi khi không đón nhận Ngài.

Ở Nazareth, Chúa sống nghèo khó trong tự do.

Chúa đã tự do trong việc tuyển chọn các môn đệ.

Chúa luôn hướng về, tìm kiếm và thực hành Ý Cha 

như một Người Con vâng phục trong tự do.


Ở thế gian, Chúa tự do trước cám dỗ và tội lỗi. 

Chúa tự do để xếp hàng với tội nhân,

chờ đợi Gioan làm phép rửa cho mình.

Chúa tự do trước ách nô lệ của lề luật. 

Chúa tự do khi sống cùng người tội lỗi,

Ngài chọn gọi Matthêu là môn đệ,

ghé thăm nhà và dùng bữa với Giakêu,

trò chuyện với người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp.


Chúa tự do để nói lên sự thật,

dù bị nhiều thế lực thù địch lăm le bách hại.

Chúa tự do trước cám dỗ ngon ngọt của Satan.

Chúa tự do đón nhận chén đắng Cha trao

với một tình yêu mến hoàn hảo.


Giờ đây, Chúa muốn con tự do bước theo Ngài,

để phụng sự Chúa dưới cờ thập giá,

như người bạn đường của Chúa.

Chúa muốn con không uốn gối,

chùn bước trước bạo quyền,

tự do trước xiềng xích và nô lệ tội lỗi.


Chúa muốn con chọn Ngài là trung tâm đời sống. 

Chúa muốn con yêu Ngài bằng con tim trọn vẹn.

Chúa muốn con tự do chọn lựa theo Ý Ngài.

Để nhờ đó, con có thể sống cho Chúa,

yêu anh chị em bằng quả tim thuần khiết,

khởi đi từ một tình yêu được hoàn toàn giải phóng.


Nhờ tự do, con có thể cảm nghiệm được những lời 

mời gọi bé nhỏ và tế nhị của Chúa.

Nhờ tự do, con bình tâm trước những mối tương quan, nhu cầu cuộc sống và xu hướng thời đại.

Nhờ tự do, con trở thành khí cụ trong tay Chúa.


Xin cho con yêu mến, chiêm ngắm Chúa mỗi ngày,

để con được trở nên tự do hơn như Chúa muốn.

Xin cho con một tinh thần tự do như Chúa,

để con biết phụng sự Chúa như Ngài đáng được phụng sự hơn. Amen.


Minh Đức, SJ

(Chiêm ngắm Chúa Giêsu, một Con Người tự do).

17.11.2025

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Lòng nhân ái như mẫu số chung của các truyền thống tôn giáo ở Việt Nam

 Lòng nhân ái như mẫu số chung của các truyền thống tôn giáo ở Việt Nam



Sống trong một thế giới đầy biến động, nơi mà khác biệt tôn giáo, văn hoá và niềm tin có thể vừa là nguồn phong phú tinh thần, vừa là nguyên nhân của chia rẽ. Trước thực tại ấy, một câu hỏi lớn được đặt ra là: Phải chăng có một “ngôn ngữ chung” giúp các tôn giáo có thể gặp gỡ và cộng tác với nhau vì lợi ích con người? Câu trả lời có thể được đặt ra là “lòng nhân ái”. Thật vậy, chỉ có lòng nhân ái, tình thương yêu con người vô điều kiện, là mẫu số chung, là hệ quy chiếu, là chiếc cầu nối giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau, đặc biệt trong bối cảnh đa tôn giáo của Việt Nam.

Trước hết, thiết tưởng cần thừa nhận rằng: Việt Nam là quốc gia, nơi có một không gian giao thoa tôn giáo và tinh thần bao dung từ lâu đời. Cụ thể, đã từ hàng trăm ngàn năm nay, Việt Nam là mảnh đất nơi nhiều tôn giáo cùng tồn tại hòa bình: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài,... Trong dòng chảy lịch sử, dù có những khác biệt trong giáo lý và nghi lễ, các tôn giáo ở Việt Nam vẫn chia sẻ một nền đạo lý chung: yêu thương con người, hướng thiện, và sống nhân ái. Chính học giả Trần Văn Giàu từng viết: “Đạo đức truyền thống Việt Nam có cốt lõi là lòng nhân ái – thương người như thể thương thân” .Dường như, tinh thần ấy thấm đẫm vào mọi tôn giáo du nhập và bản địa hóa, trở thành chất keo liên kết giữa các niềm tin khác nhau, làm nên bản chất và nét đặc sắc của con người Việt Nam. Có rất nhiều tôn giáo ở Việt Nam, nhưng vì phạm vi bài viết có giới hạn, nên chỉ dừng lại phân tích ở Tam Giáo đó là: Nho Giáo, Phật Giáo và Công Giáo.

Cụ thể, ta có thể nhận thấy cốt yếu về lòng nhân ái trong Nho giáo là lấy ‘Nhân Nghĩa như cội rễ của đạo làm người’. Trong Nho giáo, nhân (仁) là trung tâm của toàn bộ hệ thống luân lý. Khổng Tử nói: “Nhân giả, ái nhân” – người có nhân là người biết yêu người (Luận Ngữ, XII, 22). Nhân không chỉ là tình thương của cá nhân hay chỉ dành cho một cá nhân nào đó, mà là nền tảng cho trật tự xã hội: từ tình cha con, vua tôi, bằng hữu đến lòng trung hậu, khoan dung. Học giả Tu Weiming – một đại diện của Nho học hiện đại – nhận định rằng: “Nhân là biểu hiện của tính người phổ quát, là sự đồng cảm với người khác trong ý thức về cộng đồng nhân loại” .

Tại Việt Nam, tư tưởng “Nhân” được dân gian hóa thành triết lý sống giản dị: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”. Thực ra ở đây, nhân ái không chỉ là đức tính đạo đức, mà là bản sắc dân tộc, là nền tảng cho tinh thần cộng đồng – điều đã giúp xã hội Việt Nam duy trì sự gắn kết qua nhiều thế kỷ.

Kế đến, xét về lòng nhân ái trong Phật Giáo, thiết tưởng cần quan tâm đến hạn ngữ “Từ Bi”. Thật vậy, lòng từ bi trong Phật giáo được xem như suối nguồn của sự giác ngộ. Nếu Nho giáo đặt “nhân” làm cội, thì Phật giáo lấy “từ bi” làm tâm. Bởi lẽ, “Từ” là đem niềm vui, bình an cho mọi người, còn “bi” là cứu khổ, cứu nạn cho đời. Do đó, Đức Phật dạy: “Không có con đường dẫn đến từ bi – chính từ bi là con đường” (Dhammapada, câu 224).Theo Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, lòng từ bi không chỉ là cảm xúc thương xót, mà là “hiểu biết sâu sắc về nỗi khổ của người khác, để hành động giải khổ một cách thông minh và hiệu quả”.

Trong lịch sử Việt Nam, Phật giáo không chỉ truyền dạy lý thuyết, mà còn thể hiện nhân ái qua hành động: lập chùa làm nơi cứu tế, dạy dân trồng trọt, mở lớp học chữ, giúp dân thoát nạn đói và chiến tranh. Có thể thấy, vào thời Triều Trần, với tinh thần “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông, đã dung hợp giữa đạo và đời, cho thấy từ bi không tách rời trách nhiệm xã hội. Ngày nay, tinh thần ấy tiếp tục sống trong hoạt động từ thiện, y tế, giáo dục và môi trường của các tổ chức Phật giáo Việt Nam. Như vậy, lòng từ bi không chỉ là lý tưởng tâm linh mà là năng lượng, là lý tưởng, là khuôn mẫu cho một hình thái xã hội tích cực.

Sau cùng, đối với Đạo Công Giáo, lòng bác ái chính là tình yêu phổ quát, là một sợi dây hiệp nhất lẫn nhau trong Chúa. Thật vậy, trong Công giáo, nền tảng đạo đức là agape – tình yêu thương vô điều kiện, hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Chúa Giêsu dạy: “Ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình” (Mt, 22:39). Theo Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu, 2005) của Giáo hoàng Bênêđictô XVI: “Bác ái là con tim của đời sống Kitô hữu; mọi hoạt động tôn giáo chỉ thực sự có ý nghĩa nếu phát xuất từ tình yêu.”

Ở Việt Nam, Giáo hội Công giáo từ lâu đã gắn bó với đời sống xã hội thông qua hệ thống trường học, bệnh viện, trung tâm bảo trợ xã hội... Nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân tham gia hoạt động xã hội, chăm sóc người nghèo, bệnh nhân, trẻ mồ côi… – đó là biểu hiện cụ thể của tinh thần “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gl 5,6). 

Bằng chứng cụ thể là vào dịp đại dịch Covid-19, trong khoảng thời gian giãn cách xã hội, nhiều người bệnh lâm vào cảnh thập tử nhất sinh trong bệnh viện, đã có không ít các linh mục, tu sĩ và giáo dân lắng nghe tiếng Chúa gọi mời qua các vị mục tử, họ đã can đảm, quản đại và dấn thân không chút sợ hãi vào các tuyến đầu chống dịch. Các giáo dân, tu sĩ, linh mục đã can trường dấn thân vào nơi “biên cương của đại dịch”, dù biết rằng môi trường đó dễ dàng lây nhiễm bệnh và có thể mắc Covid và nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng vì Lời Chúa dạy “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 9-17) và “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15, 13), họ đã ra đi và giúp đỡ nhiều anh chị em đang trong cảnh lầm than, khốn cùng đó. Tất cả cũng chỉ vì lòng bác ái, lòng mến Chúa yêu người mà thôi!

Như vậy, tình yêu thương trong Kitô giáo không chỉ hướng về Thiên Chúa, mà còn hướng về từng con người, bất kể đối tượng được thương yêu kia có cùng đức tin hay không. Đây là nền tảng đối thoại liên tôn rất mạnh mẽ, vì nó khẳng định rằng: mọi người đều là con cái của cùng một Cha chung – Thiên Chúa Tình Yêu.

Tóm lại, mặc dù khác biệt về niềm tin, nhưgn tất cả các tôn giáo, cụ thể là tam giáo kể trên đều quy hướng về tình thương, về mối quan tâm đến con người. Đó chính là “mẫu số chung”, là ngôn ngữ tinh thần phổ quát mà các tôn giáo có thể đối thoại liên tôn, cùng nhau hành động. Chính học giả Hans Küng, người khởi xướng “Dự án đạo đức toàn cầu” (Global Ethic Project) – từng khẳng định: “Không thể có hòa bình giữa các dân tộc nếu không có hòa bình giữa các tôn giáo; và không thể có hòa bình giữa các tôn giáo nếu không có đối thoại giữa các tôn giáo.” 

Ước mong rằng, trong tương lai, khởi đi từ ngôn ngữ chung là “Lòng Nhân Ái”, các tôn giáo có thể tổ chức các cuộc họp đại kết, liên tôn để không chỉ dừng lại ở các hội thảo thần học mang tính học thuật, mà còn là các tổ chức thiện nguyện, từ thiện, để xây dựng công ích chung. Chẳng hạn như: môi trường giáo dục lành mạnh, bảo vệ môi trường, chăm sóc ngôi nhà chung, bảo vệ người yếu thế, cô đơn… trong các trung tâm bảo trợ xã hội. Đây là hành động đạo đức nhằm giúp thăng tiến giá trị nhân văn, công bình và hòa bình xã hội. Đây không chỉ là một ước mơ hạnh phúc và bình an của một cá nhân mà còn là lời mời gọi hiện sinh và cấp thiết cho các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam trong thời đại hôm nay.

Nguồn tham khảo:

  Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, NXB KHXH, 1980

  Tu Weiming, Confucian Humanism, 1996.

  Nẻo về của ý, Thích Nhất Hạnh, 1990

  Hans Küng, Global Responsibility: In Search of a New World Ethic, 1991

Minh Đức, SJ

19.10.2025

ĐI VÀO CHIỀU SÂU LÒNG MÌNH

 ĐI VÀO CHIỀU SÂU LÒNG MÌNH



- Hãy sống cuộc đời mình và là chính mình.

- Tình yêu cho ta hạnh phúc nhưng đôi lúc nó khiến ta khổ đau. Không có gì ngọt ngào hơn tình yêu và cũng không có gì đau khổ hơn tình yêu.

- Nếu trái tim không cho phép thì không ai có thể làm ta hạnh phúc hoặc khổ đau.

- Đau khổ như những làn sóng biển, thay vì để nó dập vùi và nhấn chìm thì ta hãy học cách bơi lội, thậm chí là lướt sóng.

- Nếu trái tim ta đủ lớn thì có thể ôm ấp, bao dung và cưu mang những người xung quanh, bất chấp những lỗi lầm, thương tổn, khổ đau mà họ gây ra cho ta.

- Tha Thứ là điều khó khăn nhất, nhưng cũng là điều cao quý nhất.

- Tức giận với người khác tựa như bản thân ta uống thuốc độc để trừng phạt họ.

- Đúng sai có được gì, cảm xúc đến rồi đi, chỉ yêu thương và tha thứ còn tồn tại.

- Trải qua khó khăn, thử thách và đau thương có thể ta sẽ nhận ra nhiều điều mới lạ nơi bản thân, tha nhân và Thiên Chúa. Nếu không có khổ đau thì biết thế nào là hạnh phúc.

- Đứng trước bệnh tật và sự chết, dù người thương ta đến mấy thì cũng đành bất lực chia tay ta.

- Đến một lúc ta nhận ra rằng: mọi sự vật, mọi con người, mọi tương quan…rồi sẽ qua đi, tất cả chỉ là những nâng đỡ tạm thời, sau cùng chỉ có Chúa Giêsu mới cứu độ chúng ta.

- Chết rồi! ta mang được gì về bên kia thế giới, ngoài công phúc và tội riêng.

- Càng đi sâu vào lòng mình, ta càng thấy những điều kỳ diệu trong tâm hồn, nó như một mảnh vườn đang cần ta chăm sóc: cắt tỉa gai góc, cỏ dại, tưới bón và chăm hoa…

- Để sống hạnh phúc hơn: hãy ghi lại mỗi ngày 3 điều khiến ta cảm thấy biết ơn hơn là những gì ta đã mất hoặc chưa có được.

- Không có hạnh phúc đích thực nếu không cảm nhận được Thiên Chúa đang ở trong tâm hồn mình.

- Điều quan trọng nhất trong cuộc sống này là được gặp gỡ Chúa hằng ngày. Sẽ là một thất bại khi cả một ngày sống ta không gặp được Chúa.

- Chúa không ở đâu xa: Chúa không chỉ ở trong nhà thờ, mà Ngài còn ở trong các mối tương quan, những cảnh đời đáng thương và sâu thẳm trong lòng ta. Chúa vẫn chờ, vẫn đợi để được gặp gỡ ta hằng ngày.

- Có những góc khuất trong tâm hồn mà có thể người khác không thấy, thậm chí bản thân ta cũng không thấy, mà chỉ có Thiên Chúa thấu suốt, Ngài chờ đợi ta ngỏ lời xin chữa lành.

- Nếu thực sự gặp được Thiên Chúa thì cuộc đời ta sẽ được biến đổi.

- Mỗi ngày, cần một ơn xin là: lòng mến và ân sủng của Chúa để con nhận ra và thực thi Thánh Ý Ngài.

- Bộ ba: Niềm Vui, Bình An và Hạnh Phúc luôn đi kèm với hành động: Sẻ Chia, Yêu Thương và Tha Thứ. Bởi muốn có niềm vui hãy sẻ chia, muốn bình an hãy sống yêu thương và muốn hạnh phúc hãy tha thứ cho người khác và chính bản thân mình.

- Có ba chữ T mà ta cần sống mỗi ngày: Thánh Kinh, Thánh Thể và Thánh Giá và cũng ba chữ T giúp ta có sự hài hòa trong tương quan với Thiên Chúa, tha nhân và vũ trụ vạn vật (Thiên-Địa-Nhân): Tình Yêu, Tha Thứ và Tin Tưởng.

Note: Những suy tư và đúc kết trên đây, dĩ nhiên không phải là chân lý hay lẽ sống, nhưng chỉ là một chút kinh nghiêm cá vị và nhỏ bé được góp nhặt qua những ngày hồi tâm và xét mình trong Chúa. Hy vọng một ngày đẹp trời những ý tương trên sẽ được thai nghén trong một cuốn sách nhỏ, như một hành trang của người hành hương trên đường hy vọng về quê Trời. Xin tạ ơn Chúa và cảm ơn mọi người.

Minh Đức, SJ

A.M.D.G

Thứ Ba, 7 tháng 10, 2025

CHÂM NGÔN SỐNG CỦA 2 VỊ THÁNH TRẺ ĐÁNG ĐỂ TA SUY NGẪM

 CHÂM NGÔN SỐNG CỦA 2 VỊ THÁNH TRẺ ĐÁNG ĐỂ TA SUY NGẪM



I. Carloro Acutis (1991-2006)

1. Thánh Thể là xa lộ đưa tôi về Thiên Đàng. Bởi càng gần Thánh Thể tôi càng dễ trở nên thánh thiện.

2. Chúng ta được sinh ra như bản gốc, đừng chết như bản sao.

3. Luôn kết hiệp với Chúa, đó là chương trình sống của tôi.

4. La bàn của chúng ta phải là Lời Chúa, chúng ta phải liên tục dùng la bàn này.

5. Hạnh phúc là hướng về Chúa, buồn là hướng về mình.

6. Không có Chúa, tôi không thể sống được.

7. Điều duy nhất khiến chúng ta thực sự khác biệt là cách chúng ta yêu thương.

8. Không phải danh tiếng, không phải tài năng, mà chính tình yêu là điều mang lại giá trị vĩnh cửu cho mỗi người.

9. Kinh Mân Côi là những nấc thang ngắn nhất để bước lên Thiên Đàng. Bởi vì sau Bí tích Thánh Thể, kinh Mân Côi là vũ khí rất lợi hại để chống lại ma quỷ.

10. Điều duy nhất khiến chúng ta phải sợ hãi đó là tội lỗi.

11. Quan tâm chăm sóc tâm hồn thì quan trọng hơn là vẻ đẹp ngoại hình.

12. Chương trình sống của tôi hằng ngày là nên một với Chúa Giêsu.

13. Chiến thắng bản thân sẽ ích lợi hơn việc chiến thắng ngàn trận chiến bên ngoài.

14. Giáo Hội là cửa nguồn ban phát bí tích, thế nên chỉ trích Giáo Hội là chỉ trích chính chúng ta.

15. Hoán cải không gì khác hơn là chuyển hướng nhì từ mình về Thiên Chúa.

16. Bạn chỉ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, khi tìm kiếm Thiên Chúa.

17. Tự do đích thực là thi hành Thánh Ý Chúa.

18. Chúng ta càng trở nên xinh đẹp khi hết lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình.

19. Người môn đệ đích thực của Đức Kitô là người biết noi gương bắt chước Ngài.

20. Thánh hóa bản thân không gì khác hơn việc yêu Chúa và bỏ mình hơn mỗi ngày.

21. Tôi chết thanh thản bởi không lãng phí giây phút nào vào chuyện không làm đẹp lòng Chúa.

II. Pier Giorgio Frassati (1901-1925)

1. Dobbiamo vivere, non vivacchiare” – nghĩa là: “Chúng ta cần phải sống, chứ không chỉ sống vật vờ.

2. Sống mà không có đức tin, không có di sản để bảo vệ, không đấu tranh liên tục cho chân lý, thì không phải là sống mà là ‘thỏa hiệp’; chúng ta không bao giờ chỉ là thỏa hiệp.

3. Chúa Giêsu ở cùng tôi. Tôi chẳng có gì phải sợ.

4. Một người Công giáo không thể bất hạnh. Họ hạnh phúc ngay cả khi đau khổ.

5. Thật giàu có khi có sức khỏe tốt, như chúng ta hiện tại! Chúng ta có nhiệm vụ phải đem sức khỏe của mình để phục vụ cho những người không có sức khỏe.

6. Kẻ ngu ngốc là kẻ chạy theo thú vui của thế gian này. Niềm vui đích thực duy nhất là niềm vui đến với chúng ta thông qua đức tin.

7. Khi bạn hoàn toàn bị ngọn lửa Thánh Thể thiêu đốt, thì bạn sẽ có thể ý thức hơn để cảm tạ Thiên Chúa. 

8. Hạnh phúc đích thực không nằm ở những thú vui của thế gian này, hay những thứ trần tục, mà nằm ở sự bình an trong lương tâm, điều mà chúng ta chỉ có được nếu chúng ta có trái tim và tâm trí trong sạch.

9. Cầu nguyện hằng ngày giúp ta vượt qua mọi nỗi buồn sầu.

10. Chúng ta, những người Công giáo, nhờ ơn Chúa, không được phung phí những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời mình như nhiều người trẻ bất hạnh vẫn làm, những người lo lắng về việc tận hưởng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, những điều thực ra không mang lại điều gì tốt đẹp, mà chỉ là kết quả của sự vô luân trong thế giới ngày nay.

11. Trong thế giới ngày nay, Đức Tin như một mỏ neo của Ơn Cứu Rỗi.

Minh Đức, SJ

A.M.D.G

Tổng hợp từ nhiều nguồn.

Kỷ niệm ngày lễ phong thánh của 2 vị thánh trẻ: 07/9/2025

Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

GÓC KHUẤT ĐỜI CON

 Chúa ơi! “Góc Khuất” trong đời,

Lòng con không thể thốt lời thân thưa. 

    Như trời sớm nắng, chiều mưa,

Tâm con có lúc vẫn chưa an bình.

   Con chưa hiểu thấu chính mình,

Cô đơn trong cõi lặng thinh vô ngần. 

    Nguyện xin Chúa đổ hồng ân,

Để con có thể “kết thân với Ngài”. 

Minh Đức, SJ







Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

…Đi Vào Chiều Sâu Lòng Mình…

 

Một trong những nguyên nhân có thể khiến tâm hồn ta trở nên bất hạnh và bất an đó là sự lo lắng. Thực tế, sống trong thời buổi kinh tế thị trường suy thoái, với những nhu cầu tiện nghi hiện đại, áp lực tài chính của cuộc sống đã không ngừng thúc bách và đặt vấn đề về cơm áo gạo tiền cho ta. Ta phải lo toan nhiều thứ, giải quyết nhiều chuyện, sắp xếp thời gian và điều phối công việc sao cho ổn thỏa, thuận tiện nhất. Điều đó có thể tốt trong một mức độ nhất định, tuy nhiên, nếu để nỗi lo toan, lo lắng trở nên thái quá, nghĩa là nó chiếm cứ mọi suy nghĩ, bận tâm trong đầu óc, tâm hồn của ta, thì quả nhiên đó là một nỗi phiền não lớn khiến ta có thể trở nên bất an trong tâm hồn, bất nhẫn với người thân và thậm chí là bất mãn với chính mình.


Thế nhưng, khi biết tập chú, 'quay vào bên trong' để đi sâu vào tâm hồn mình, ta sẽ cảm nghiệm những điều thiêng liêng, cao quý và mới lạ, mà có thể trước đây ta chưa từng nhận ra. Từ sâu thẳm trái tim, ta thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu, Đấng luôn hiện hữu ở đó để chờ đợi và hẹn hò với ta không ngừng. Chính những cảm nghiệm thiêng liêng này, sẽ giúp ta trở nên trầm lặng hơn trước những biến cố, sự kiện vui buồn, thành công hay thất bại của cuộc sống. Bởi với cái nhìn của Chúa, mọi sự sẽ trở nên nhẹ nhàng, ý nghĩa và thiêng liêng hơn cho ta.


Nhưng trong thực tế, có đôi lần khi đối diện với những nỗi khổ niềm đau, có thể ta dễ dàng quy chụp, xét đoán, nhận định theo thiên kiến cá nhân cách chủ quan và phiến diện. Chẳng hạn, khi đứng trước một tai nạn bất ngờ nào đó, có thể ta cho rằng mình bị xui rủi, kém may mắn hoặc ngược lại, nếu thành công trong một công việc nào đó, có thể ta cho rằng nhờ biết bao nỗ lực, cố gắng, mồ hôi công sức của bản thân mà ta mới có được thành quả như vậy. Dường như, trong mọi thành công và thất bại của ta đều thiếu vắng bóng dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Có lẽ, Thiên Chúa chẳng mấy liên quan đến cuộc sống của ta.


Có những lúc trong đời sống Đức Tin, dường như ta cảm thấy Thiên Chúa quá xa vời. Ta chẳng cảm nhận được sự hiện hữu và hiện diện của Ngài trong đời sống thiêng liêng thường nhật. Dĩ nhiên, ta thừa biết rằng: Thiên Chúa là Đấng cao siêu, toàn tri và toàn năng… Ngài thấu suốt mọi điều và cho phép chuyện gì xảy ra hoặc không xảy ra. Bổn phận của ta là lắng nghe và thực thi Ý muốn của Ngài. Tuy nhiên, không ít lần, tri thức, trí hiểu cũng như tầm nhìn của ta thì hạn hẹp đến mức, ta cho rằng Thiên Chúa quá ‘chậm chạm’ và dường như Ngài ‘ngây ngô’ trước những khó khăn, khổ não, phiền lụy… của ta. Ta trách Chúa rất nhiều, tại sao Ngài không can thiệp vào chuyện này của con, tại sao Chúa để con đau khổ và ra nông nỗi ngày, tại sao Chúa cứ mãi thờ ơ, và dường như ‘vô cảm’ với con…? Con mong muốn thế này, Chúa lại mong muốn thế kia; con xin Chúa làm cái này, làm cái kia, cất con khỏi sự dữ, tai ương, và ban cho con được điều này, điều nọ… thế mà, dường như Chúa chẳng đoái hoàn đến con. Con không cần Chúa nữa đâu!


Hệ quả là những tính toán cho bản thân, những bám víu vào danh-lợi-thú, hay tình cảm, lời khen tiếng chê của mọi người làm ta trở nên con người phụ thuộc, hoặc nặng hơn là trở nên tha hóa (đánh mất chính mình theo người khác). Rút cuộc, những điều chính yếu thì ta bỏ quên mà chỉ tập trung vào những điều tùy phụ của cuộc sống. Thế nhưng, khi biết quay về với chính mình để lắng nghe nội tâm cách sâu lắng, có thể ta sẽ nhận ra nhiều điều mà Thiên Chúa muốn mời gọi ta thực hiện. Phải chăng, đó là lời mời gọi ta biết yêu chuộng những gì cao quý hơn, chân thật hơn, và thiêng liêng hơn.


Chính nhờ việc quay vào bên trong lòng mình, ta sẽ cảm thấy được sự bình an sâu lắng, hạnh phúc sâu xa và niềm vui sâu đậm. Dường như những niềm vui tạm thời, những ham muốn tạm bợ và những dục vọng tạm trú nơi ta không còn bám víu và ảnh hưởng cách mạnh mẽ và chấn động tâm khảm, lay động tâm can, bấn loạn tâm trí và thao túng tâm hồn của ta như trước. Bởi vì ta sẽ biết cách chống chọi và thoát ly với những mâu thuẫn nội tâm, và càng lúc ta càng hiểu thấu chính mình hơn.


Có thể xem sự bình tâm là một lối sống giúp ta dễ dàng đặt Thiên Chúa là trọng tâm của đời sống mình mỗi ngày. Bình tâm ở đây cũng là điều mà thánh Inhaxiô thành Loyola, mời gọi không chỉ các anh em Dòng Tên và kể cả các thao viên trong Linh Thao thực hiện và sống mỗi ngày. Thực ra, bình tâm không phải là dửng dưng trước mọi biến cố của cuộc sống, hay là khái niệm ‘tùy duyên’ cách thuần túy (cái gì đến thì đến, cái gì đi thì đi, tùy thuận theo tự nhiên, tùy thuận theo thiên đạo, nhân duyên…) trong Phật giáo, nhưng đúng hơn, bình tâm là ‘đặt Chúa lên trên hết’ mọi quyết định, lựa chọn của ta.


Chính khi đặt Chúa lên trên hết, ta sẽ nhận thấy điều quan trọng nhất trong cuộc sống thường nhật không phải là làm điều mình muốn làm, thực hiện điều mình mong chờ…Nhưng là lắng nghe và thực hiện điều Thiên Chúa đã và đang mời gọi trong lòng ta. Chính những tác động thiêng liêng điều hướng ta đến những điều siêu nhiên, cao quý hơn, giúp ta trở nên bình an, hạnh phúc, vui tươi và siêu thoát hơn. Đây là kinh nghiệm thiêng liêng rất cần thiết cho đời sống nội tâm của ta.


Thật vậy, khi biết lắng nghe tâm hồn và đi vào chiều sâu nội tâm, ta sẽ cảm nhận thấy một sự sống thần linh bắt nguồn từ Ba Ngôi Thiên Chúa không ngừng chảy tràn trong ta. Dường như, Thiên Chúa có một kế hoạch cứu độ, một chương trình tình yêu dành cho ta, mà bấy lâu nay có thể ta chưa nhận ra. Bởi có nhiều lúc, ta mải mê xây đắp cuộc đời mình với những hoài bão lớn lao, dự phóng tuyệt hảo, tham vọng bất tận… Đến một lúc, ta sẽ nhận ra mọi toan tính cho riêng mình dường như là ‘vô thường’, ‘phù vân’ mà thôi!

Tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa là uyên nguyên, nguồn cội, và là sức sống đích thực cho đời sống thiêng liêng của ta. Chỉ có một điều cần thiết và quan trong nhất trong cuộc sống này là được gặp gỡ và sống kết hiệp với Thiên Chúa trong từng phút giây của ngày sống. Chính trong những tâm tình thiêng liêng này, ta nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa mới là điều quan trọng hơn là những công việc của ta, thậm chí là những công việc của Chúa. 


Thực ra, nếu là công trình của Thiên Chúa thì hãy cứ để Ngài thực hiện, nếu được Ngài mời gọi cộng tác, ta hãy vui vẻ dấn thân, quảng đại thực hiện với tất cả tình yêu mến. Bất chấp những thành công hay thất bại, kể cả trở ngại và khó khăn, kể cả những tình cảm thấp hèn, những đánh giá thị phi của người đời, hãy lo sợ trước những đổi thay của vận mệnh… (Pl 3,8), bởi ta biết Thiên Chúa không bỏ rơi ta, trái lại Người luôn đồng hành, đỡ nâng ta mọi lúc, mọi nơi.


Dĩ nhiên, đây không phải một mớ lý thuyết suông, hay một giấc mơ tuyệt đẹp, mà đây là một lẽ sống, một kinh nghiệm sống trong Thiên Chúa. Đúng hơn, đây là hoa trái của Chúa Thánh Thần nơi một tín hữu biết say mê bước theo và sống trong Đức Kitô. Bởi lẽ, một người năng sống kết hiệp mất thiết, gắn bó thâm sâu và liên lỉ với Chúa Giêsu, người đó sẽ tràn đầy sức sống thần linh, họ có cái nhìn của Chúa và mang tâm tình của Chúa. Họ có một trái tim hòa điệu với nhịp đập của Thiên Chúa, một trái tim yêu thương, tha thứ, nhân từ và bao dung với mọi người.


Minh Đức, SJ

04.6.2025

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2025

Hạnh Phúc và Khổ Đau

Đã có người định nghĩa “hạnh phúc là không có khổ đau”. Thế nhưng, sống trong kiếp người, mấy ai dám vỗ ngực xưng danh rằng mình không có khổ đau hoặc không sợ những nỗi khổ niềm đau. Dường như khổ đau và hạnh phúc đi liền với nhau như hình với bóng trong cuộc sống hiện sinh. Vậy phải chăng trong hạnh phúc luôn mang dáng dấp của khổ đau?

Dĩ nhiên, giữa việc chịu khổ và chịu đau không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Thực tế, có nhiều người rất khổ sở, vất vả để mưu sinh trong cuộc sống nhưng họ có thể cảm thấy không mấy đớn đau. Chẳng hạn, có những bậc cha mẹ chịu cựu khổ vì con cái, nhưng những nỗi khổ đó sẽ trở thành niềm vui bởi họ biết sự hy sinh, vất vả, cực nhọc của mình là vì tương tai tốt đẹp của con cái. Ngược lại, có những nỗi đau sẽ trở nên những nỗi khổ, nếu ta không đủ bản lĩnh vững vàng, tâm lý vững trãi hay một niềm tin vững chắc vào một thực tại siêu linh nào đó. Ví như, một ngày kia ta bị đau bệnh và bác sĩ khám bệnh nhận định rằng: ta đã mắc bệnh hiểm nghèo và chỉ còn sống được vài tháng ngày ít ỏi. Khi đó, nếu trong tâm thế lo sợ, bi quan, hụt hẫng và tuyệt vọng thì có thể hung tin đó là một nỗi khổ đau khủng khiếp ám ảnh đối với ta.

Tuy nhiên, khổ đau cũng có giá trị riêng của nó. Một vị minh sư đã khặng định rằng: “nếu không có khổ đau, biết đâu là hạnh phúc”. Xét ở một mức độ nào đó, nhận định này có vẻ thuyết phục và đáng để tin nhận. Chẳng hạn, khi ta bị kẹt xe dưới trời mưa tầm tã, đường xá bị ngập lụt… giữa cảnh lạnh lẽo và đói bụng đó, ta cảm thấy trân quý lúc mình ăn một tô bún hầm xương nóng hổi thơm lừng trong một ngôi nhà ấm áp, đầy tình thương. Hoặc khi bị nhức đầu đau bụng, ta mới thấy quý trọng lúc thân mình khỏe mạnh, trí óc minh mẫn… 

Câu truyện trong Kinh Thánh (Mt 24,11-13) là một ví dụ, nếu chàng rể không đến trễ thì đâu là sự khác biệt giữa những cô khờ dại và khôn ngoan? Đôi khi trong cuộc sống, những điều ‘bất như ý’, những điều không như ta mong muốn và những việc không như ta mong chờ có thể là cơ hội để ta biết quý trọng nhiều thứ và biết tiên liệu nhiều điều ngay bên cạnh mình hơn. Nhờ biết sống chậm và ý thức những giá trị thực tại đã và đang sở hữu, ta càng cảm thấy cuộc sống này càng có ý nghĩa và sống động hơn. Chẳng hạn, ta cảm thấy hạnh phúc thực sự khi ăn một bữa cơm giản đơn chỉ gồm đĩa rau muống luộc và bát cá kho nhỏ nhưng gia đình đầy ắp tiếng cười hơn là một bữa tiệc linh đình nơi nhà hàng cao cấp, với đầy món hải vị sơn hào, bao ngư tổ yến, nhưng mỗi người lại ‘cắm mặt’ vào chiếc điện thoại, vào thế giới riêng của mình, và chẳng ai muốn tương tác và đoái hoài đến nhau.

Thực ra, hạnh phúc thực sự không ở đâu xa, hạnh phúc là hiện tại, là ở nơi đây. Nếu ta hài lòng với những gì ‘mình có’ và những gì ‘mình là’ thì đó cũng là lúc ta đang tiệm cận với hạnh phúc rồi! Nếu ta biết hài lòng với ngôi nhà mình đang ở, với công việc mình đang làm, với chiếc xe mình đang chay, với điện thoại mình đang dùng, hay những người thân yêu đang bên cạnh mình, và trân quý những điều đó, thì ta đã và đang sống hạnh phúc. Đừng để đến khi vì một lý do nào đó, ngôi nhà mình đang ở bị mất đi, công việc mình đang làm bị thất bại, chiếc xe mình đang chạy bị hư hỏng, hay người thân yêu của ta rời bỏ thế giới này cách vĩnh viễn, khi đó, những nuối tiếc về việc sống cùng, sống với những thực tại, đối tượng và những người thương kia có thể đã quá muộn màng.

Để có thể làm được điều đó, thiết nghĩ cần phân biệt giữa ‘cái có’ và ‘cái là’ cũng giúp ta biết trân quý căn tính và thực tại của đời mình hơn. Trong triết học của Gabriel Marcel (1989-1973), ông có phân biệt hạn từ “BEING” và “HAVING”. Trước hết, ‘cái có’ với ‘cái là’ đôi khi khiến ta hay bị nhầm lẫn với nhau. Marcel phân biệt giữa việc tôi có đôi tay và tôi có căn nhà là hai cái tuy rằng tôi thuần túy là tôi sở hữu chúng, nhưng chúng lại hoàn toàn khác nhau. Một cái ở bên ngoài tôi và một cái ở trong tôi, nó gắn liền với cơ thể của tôi.

Chuyện kể rằng, có một Giám mục kia đi thăm mục vụ ở một dòng nữ nọ. Khi đi ngang qua nhà bếp, Đức Cha thấy một nữ tu đang tất bật nấu ăn, tuy vất vả nhưng khuôn mặt soeur ấy toát lên vẻ thánh thiện, vui tươi và bình an sâu thẳm. Đức Cha liền lên tiếng hỏi thăm: “Soeur đang làm gì ở đây vậy?”. Nữ tu kia cúi chào và niềm nở đáp lại Đức Cha bằng một câu nói dí dỏm: “việc con đang làm cũng giống như Đức Cha vậy ạ!” Đang khi, Đức cha ngạc nhiên trước câu trả lời đó, thì nữ tu mỉm cười và đáp: “dạ! con cũng như Đức Cha là những người đang tìm kiếm và thực thi Thánh Ý Chúa ngang qua việc bổn phận thôi ạ!”

Tuy câu trả lời có vẻ dí dỏm, hài hước, nhưng hàm chứa một ý nghĩa sâu xa và chiều kích thiêng liêng sâu thẳm của vị nữ tu. Đúng vậy, Đức cha đã gật đầu và đáp lại: “vâng! Soeur nói đúng, vấn đề không chỉ là DOING mà còn là BEING nữa!”. Nghĩa là không chỉ làm cái này, cái kia cái nọ, nhưng quan trọng hơn chính là sống căn tính đời mình. Căn tính của người Kitô Hữu, là một người có Chúa ở cùng, là một người bạn của Chúa Giêsu, một người sống và thi hành Ý Chúa mỗi ngày. Vậy, Giêsu có yêu cầu gì cho người bạn của Ngài? Thưa đó là: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình và vác thánh giá mỗi ngày” (Mt 16,24). Bạn của Chúa Giêsu là thế đó!

Dĩ nhiên, xét trong một mức độ nào đó, việc vác thập giá mỗi ngày không hoàn toàn đồng nghĩa với việc chịu đau khổ mỗi ngày. Tuy nhiên, thập giá và thánh giá cũng khác nhau tùy vào khả năng nhận thức và mức độ thiêng liêng của mỗi người. Có người đã nói rằng, khi có tình yêu thì thập giá trở nên thánh giá và thánh giá cũng chính là “cái giá” để cho ta nên thánh. “Cái giá” ở đây có thể được hiểu theo hai nghĩa: một là giá trị thiêng liêng, hai là giá đỡ tinh thần. Khi ý thức được như vậy, có thể người đó sẽ cảm nhận được tình yêu và hạnh phúc ngay bên mình ngang qua những thánh giá hằng ngày, và bất chấp những khổ đau, thử thách, gian nan bủa vây.

Khi đó, các câu hỏi như: bấy lâu nay tôi đang tìm kiếm điều gì? Đâu là điều quan trọng nhất trong cuộc đời tôi? Đích điểm của cuộc sống này là gì? Sẽ được giải đáp cách dễ dàng hơn nếu đặt trong tương quan tình yêu cá vị với Chúa Giêsu. Thực ra, điều quan trọng nhất trong cuộc sống này, theo các nhà tu đức thì không phải làm điều này, điều kia, điều nọ… cho bằng tìm gặp Chúa trong cuộc sống thường ngày. Nếu không gặp được Chúa, thì mọi cố gắng nỗ lực và thành công trong cuộc đời kia chẳng có nghĩa lý gì, có chăng đó là sự tô vẽ và đánh bóng bản thân giữa những hư vinh trần đời chóng qua.

Được gặp Chúa mỗi ngày đó là niềm hạnh phúc đích thực. Dĩ nhiên, không phải quá khó hoặc quá dễ dàng để có thể tìm gặp được Chúa và thực thi Ý muốn của Ngài. Bởi lẽ, tìm gặp Chúa cũng là một quá trình và tìm biết Ý Ngài cũng là một chặng đường tu tập, sống gắn bó, kết hiệp mật thiết và thâm sâu với Ngài. Tuy rằng, Chúa vẫn hằng ẩn thân nơi Nhà Tạm nhỏ bé đơn sơ, nhưng Ngài cũng là họa ảnh nơi những người nghèo khó, lầm than, khốn khổ, nơi những trẻ em nghèo trên đường phố, nơi cụ già vô gia cư, nơi chị lao công nhỏ bé hoặc nơi bác bảo vệ bên đường…hay thậm chí là những người thân quen, xóm giềng của ta. Điều quan trọng là ta có nhận ra sự hiện diện thiêng liêng và sống động của Chúa nơi họ hay không mà thôi!

Cách chung, nếu có ai đó hỏi rằng: “hạnh phúc đích thực là gì?”. Có lẽ câu trả lời không chỉ là niềm vui, hạnh phúc và bình an từ sự sống đời sau, hay Thiên Đàng vĩnh cửu mai hậu, nhưng đúng hơn đó là việc gặp gỡ Chúa hằng ngày, trong từng phút giây. Càng có thói quen sống gắn bó, kết hiệp mật thiết và thâm sâu với Chúa Giêsu ta lại càng có trực giác, nhạy bén với các dấu chỉ từ Thánh Ý Chúa. Đồng thời, càng biết quay trở về với lòng mình, đi vào chiều sâu tâm hồn, ta càng cảm thấy Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi nơi ta và muốn trao ban một sự sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Augustine đã từng có kinh nghiệm về điều này khi ngài thốt lên trong cuốn Tự Thuật: “Chúa ơi! Con biết và yêu Chúa quá muộn màng! Chúa luôn ở trong lòng con mà con lại ở ngoài Chúa!”

Xin Chúa cho con biết sống gắn bó, kết hiệp mật thiết với Ngài trong từng phút giây của cuộc sống. Nhờ đó, những nỗi khổ niêm đau kia sẽ trở nên thánh giá nhẹ nhàng để con vác trên vai cùng với Chúa. Xin cho con biết yêu mến cuộc sống hiện tại với tất cả niềm vui, bình an để con cảm nhận được hạnh phúc mà Chúa đã ban tặng cho con. Lạy Chúa là Thiên Chúa và là hạnh phúc của đời con.

Minh Đức, SJ

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

Nhiệm Màu Tình Yêu

 Nhiệm Màu Tình Yêu



Chiều Thu ngắm lá vàng rơi,

Lang thang dưới phố, mây trời theo sau.

Mùa thu quấn quýt mái đầu,

Gió lùa vạt nắng, hoa dầu xoay xoay.

Hồn theo tình ngát hương bay,

Lâng lâng nhạc khúc, đắm say vô bờ.

Giấc mơ hạnh phúc đang chờ,

Đợi người thi sĩ, dệt thơ ghép vần.

Đôi chân lê bước bụi trần,

Vầng dương soi chiếu, lúc gần lúc xa.

Nhìn vào chính bóng hình ta,

Lặng im ngẫm nghĩ, nhận ra nhiều điều.

Làm sao hiểu thấu chữ “ yêu”,

Trong ta nỗi nhớ buổi chiều mưa ngâu.

Hàn huyên đến lúc đêm thâu,

Mà sao chưa hết những câu chuyện tình.

Tình yêu đi với hy sinh,

Tình yêu đi với quên mình hiến thân.

Trong ta hữu thể cận lân,

Nhớ nhung, da diết, tình thân con người.

Nhớ ai nhớ cả nụ cười,

Bờ môi cỏ mộng, xinh tươi ngọt ngào.

Vó ngựa từng lúc dâng cao,

Tình yêu chạm khẽ, lao xao tim mình.

Đôi khi hạnh phúc lặng thinh,

Bình yên để ngắm chính mình hôm nay.

Khép lại một mối tình say,

Mật ngọt giọt đắng, men say rượu nồng.

Hỏi rằng em có nhớ không?

Bình minh rực rỡ, bên hông cửa nhà.

Nhâm nhi từng tách nước trà,

Nhìn ra ao cá, vườn cà mẹ gieo. 

Xanh xanh giàn mướp, chanh leo,

Tiếng chim rộn hót mang theo an bình.

Em ơi! Đẹp nhất quê mình,

Nhà tranh vách đất, đậm tình quê hương.

Cũ màu gốc bếp tình thương,

Nơi đây tỏa khói, mùi hương của bà.

Bà đun nồi cá kho cà,

Cơm canh rau muống, cả nhà ăn ngon.

Bà thương thằng bé nhỏ con,

Gắp cho khúc cá thật ngon, thơm lừng.

Cháu luôn cảm thấy vui mừng,

Lon ton vạt áo, sau lưng của bà.

Giờ đây bà đã đi xa,

Bà nằm lại với xa xa mây ngàn.

Bà ơi! Con nhớ vô vàn,

Mong bà hạnh phúc, bình an muôn đời.

Theo làn khói trắng về trời,

Ở bên cạnh Chúa muôn đời hiển vinh.

Thực tại về với lặng thinh,

Hoàng hôn ngả bóng, nép mình nhớ nhung.

Cánh chim mệt mỏi não nùng,

Trong ta nỗi nhớ mông lung, vô bờ.

Trách ta sau mãi hững hờ,

Vô tâm, khép kín, thờ ơ với người.

Dĩ ngôn bất khả thành lời,

Thổi hồn theo gió cuối trời thênh thang. 

Con tim thổn thức đa mang,

Chập chờn cánh bướm vàng vàng, bay bay.

Xa xăm đồi cỏ, ngọn cây,

Tình yêu đẹp nhất tháng ngày bên nhau.

Kiếp người thoáng chốc qua mau,

Nhìn lại để thấy nhiệm màu tình yêu.

Đẹp thay nhan sắc mỹ miều,

Bờ vai, mái tóc, yêu kiều dễ thương.

Bờ mi, tóc rối tơ vương,

Làm sao để sống không thương người nào?

Tình yêu vị sắc ngọt ngào,

Như cung đàn réo lên cao mây ngàn.

Bên cạnh hạnh phúc chứa chan,

Đôi khi cay đắng, hòa tan lệ sầu.

Em đi trong gió mưa ngâu,

Em đi mang cả bể dâu cuộc đời.

Bàn tay lạnh cứng rã rời,

Bâng khuâng da diết từng hơi thở này.

Tình yêu vốn dĩ trả vay,

Mấy ai hiểu thấu đắng cay cuộc tình.

Lọc lừa gian dối bên mình,

Con tim vỡ nát, lặng thinh u sầu.

Vườn hoa đêm tối mưa ngâu,

Lối vào khép kín tận sâu cõi lòng.

Chỉ còn một nỗi khát mong,

Chữa lành thương tổn, sạch trong tình tuyền. 

Đi để chữa lành, để trái tim trở nên ấm áp, đầy yêu thương giữa một kiếp người.

Này đây thanh xuân con, xin hiến dâng Ngài.


Nha Trang-Đà Lạt 2025

Minh Đức, SJ

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

Những Kỷ Niệm Về Cha Linh Hướng, Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.



Gần hai năm nay, con may mắn được cha Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J. nhận giúp linh hướng. Ban đầu, con rất dè dặt và ái ngại khi có ý định nhờ cha giúp linh hướng cho mình, bởi vì con biết rằng cha đang mang trong mình cơn bạo bệnh ở giai đoạn cuối, nên sức khỏe cũng bị giới hạn từ nhiều con đau đớn dữ dội và âm ỉ kéo dài. Tuy nhiên, sau khi cầu nguyện và lắng nghe những chia sẻ từ buổi giúp tĩnh tâm tháng của cha dành cho các anh em học viên Dòng Tên. Con đã quyết định liên lạc với cha và trình bày ước muốn của mình.

Sau khi lắng nghe những chia sẻ của con, cha đã đồng ý nhận giúp linh hướng. Con vẫn nhớ như in ngày đầu tiên con gặp cha, tay bắt mặt mừng, cha niềm nở tiếp đón con cách ân cần và lịch sự, tựa như một người khách quý của cha. Con đã hỏi cha rằng: “cha ơi! đang đau bệnh nặng như vậy, cha có cảm thấy mệt khi giúp con không? Nếu cha mệt thì cha cứ nói con dừng lại và nghỉ nghơi cha nhé!”. Đáp lại, cha mỉm cười: “Không sao đâu thầy! Khi nào cha mệt cha sẽ nằm nghỉ, với lại Chúa cho cha sống ngày nào thì đó là hồng ân, là niềm vui ngày đó. Được giúp thầy, đó cũng là một ơn Chúa ban cho cha rồi!” Nói rồi, cha khẽ mỉm cười, một nụ cười toát lên niềm vui sâu xa, và hạnh phúc sâu thẳm.

Sau đó, từng bước, từng bước một, cha nhẹ nhàng cùng còn đi vào đời sống tâm linh của mình và tìm cách hướng dẫn con đi theo Thánh Ý Chúa. Cha đã dạy con cách phân định thiêng liêng trong từng hoàn cảnh của ngày sống cách kỹ lưỡng. Thậm chí, có lần hai cha con cùng ôn lại 2 bộ phân định thần loại của thánh I-nhã. Đặc biệt, cha đã đặt lại kinh nghiệm cá vị của con với Chúa Giêsu cách nghiêm túc. Bằng cách đặt những câu hỏi rất cơ bản và nền tảng, chẳng hạn như: “Tháng rồi, thầy Đức có bình an, hạnh phúc và triển nở không? Thầy có cầu nguyện được không? Tháng rồi, thầy có kinh nghiệm gì với Chúa không? Đâu là lời mời gọi của Chúa cho thầy trong thời gian qua?”

Con đã trả lời những câu hỏi trên của cha, và thậm chí còn chia sẻ cả những bối rối, lo sợ và bất an của mình. Chẳng hạn, có lần con lo lắng về sứ mạng thực tập tông đồ 2 năm tới của mình, con không biết bề trên giám tỉnh sẽ gửi mình đi đâu? Bởi con hiểu rõ về những giới hạn của mình, như sức khỏe, kỹ năng làm việc, sự tự tin, tinh thần dấn thân, nhiệt huyết tông đồ,… Sau khi lắng nghe, cha khẽ cười và đáp lại cách nhẹ nhàng: “Nếu con không phù hợp với chỗ đó, thì bề trên vẫn có thể gửi con đi chỗ khác được mà, có gì đâu mà phải lo lắng, sợ hãi! Điều quan trọng là hãy trình bày nội tâm, điểm mạnh, điểm yếu của mình, sau đó thì hãy để bề trên, thay mặt Chúa sếp đặt cho mình. Con hãy nhớ rằng: Chúa và nhà Dòng luôn muốn điều tốt nhất cho con.”

Quả thật, con đã thực hiện như lời cha dạy bảo: “vâng phục và yêu mến sứ mạng bề trên trao phó cho mình, chính là Thánh Ý Chúa” và cho đến nay, con cảm thấy sự bình an, nhiều niềm vui và hạnh phúc trong sứ vụ hiện tại mà mình đang đảm trách. Cách đây vài tháng, con chia sẻ lại kinh nghiệm thú vị này cho cha, thì cả hai cha con đều vui mừng và hạnh phúc, bởi khi vâng lời bề trên, chính Chúa sẽ làm cho ta những điều tốt đẹp và như lời Thánh Vịnh đã chép “ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (TV 126,3). Có lẽ, đó là một trong những kinh nghiệm đẹp mà con được cha giúp trong linh hướng.

Trong lần gặp cuối cùng, trước khi cha về với Chúa, có lẽ đây là những lời chăn chối chân thành, chân tình, và chân ái nhất mà cha dành cho con. Cha đã khuyên nhủ con rằng: “Đức ơi! Được sống đó là một ơn lớn lao từ Thiên Chúa rồi! Có lẽ người hạnh phúc nhất là người biết mình được Thiên Chúa yêu thương và ở cùng mỗi ngày. Vì thế, con hãy trung thành với giờ cầu nguyện sáng, xét mình trưa và tối kỹ lưỡng. Con hãy kéo dài bầu khí thiêng liêng với tâm tình cầu nguyện và tạ ơn Chúa trong toàn bộ ngày sống. Bởi lẽ, còn cầu nguyện là còn đi tu được con nhé!”

Giờ đây, đứng trước di ảnh của Cha mà lòng con xao xuyến, bồi hồi, và thương mến không nguôi. Những lời sau cuối của cha dành cho con luôn vang vọng trong tâm khảm, thôi thúc tâm can, và dâng tràn cảm xúc. Dù là anh em trong Dòng, dù cách xa bao thế hệ và tuổi tác, nhưng con cảm thấy cha luôn yêu thương, quý mến và tôn trọng con. Xin cám ơn cha với những lời khuyên nhẹ nhàng, dịu dàng, chân thành và sâu đậm dành cho con. Con cầu nguyện xin Chúa ban cho cha gia nghiệp Nước Trời, sau một đời trung thành và nhiệt tâm theo Chúa Giêsu Vác Thập Giá đến cuối đời. Con xin cảm ơn cha, một người cha, một người thầy và là một người Bạn Đường của Chúa Giêsu, đã yêu thương và dắt dìu con đi trong đời sống thiêng liêng và ơn gọi Dòng Tên.

Hv: Minh Đức, SJ

 

 


Chúa Giê-su rửa chân cho các môn đệ

 

KHÁT PHỤC VỤ CỦA GIÊSU

Tin Mừng (Ga 13, 1-15)

Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”. Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”. Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.”

Ơn Xin: Xin Chúa cho con có được cảm nhận thâm sâu về tình yêu cá vị, mà Chúa Giêsu dành cho con. Để con yêu mến Chúa hơn, và có được lòng khao khát phục vụ anh chị em mình, như chính Chúa Giêsu, vì yêu thương mà phục vụ chúng con.

Khung Cảnh: Trong một căn phòng kín đáo, nơi diễn ra bữa tiệc ly, đang khi dùng bữa, Chúa Giêsu cởi áo choàng, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu. Người tiến đến bên chân các môn đệ, cúi mình xuống, đổ nước và rửa chân cho từng người học trò của mình. Các môn đệ lúng túng, ngỡ ngàng vì không hiểu hành động của thầy Giêsu. Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của hành động trên: đó là “Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.” Thầy Giêsu đã làm gương cho các môn đệ, để các môn đệ cũng làm như Thầy, nghĩa là phục vụ anh em mình.

Phần này đặt vào booklet để mọi người đọc chung trước khi gợi điểm

Lời nguyện:

Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.

Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Diễn Giải Tin Mừng

Chỉ có một mình thánh Gioan thuật lại bối cảnh Chúa Giêsu (CG) rửa chân cho các môn đệ. Khi biết mình sắp lìa bỏ thế gian để về cùng Chúa Cha, CG có rất nhiều khao khát, thao thức và trăn trối cho các môn đệ. Có lần CG đã thốt lên “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Dĩ nhiên, ‘phép rửa’ mà CG đề cập ở đây được hiểu là cuộc thương khó mà Ngài sắp phải vượt qua. Nhưng trước khi đi vào cuộc khổ nạn, CG đã bày tỏ tình yêu thương các môn đệ qua cách phục vụ họ. Ngài khiêm nhường cúi xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly.

Cụ thể, trong chương 13 của Tin Mừng này, thánh Gioan khéo léo lồng ghép những chi tiết và câu nói rất có ý nghĩa. Chẳng hạn như: “Ngài yêu thương họ đến cùng”àThầy Giêsu biểu lộ tình thương bằng hành động cụ thể cho các môn đệ; “các con cũng phải làm việc này cho nhau” àhành vi nêu gương rửa chân cho các môn đệ của Chúa Giêsu là bài học khiêm nhu phục vụ. Bởi lẽ, “dấu hiệu người ta nhận biết, anh em là môn đệ Thầy, đó là hãy yêu thương nhau” à yêu thương phục vụ là “điều răn mới” mà thầy Giêsu muốn người môn đệ khắc cốt ghi tâm. Ở đây, chúng ta sẽ suy niệm sâu kỹ hơn về tình yêu thương được thể hiện qua thái độ: Khao khát phục vụ.


 

Suy niệm và cầu nguyện

Khao Khát Phục Vụ Trong Tình Yêu Thương

Ta hãy thử cảm nhận tình thương của CG dành cho các môn đệ. Thánh Gioan thuật lại rằng: “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình…và đã yêu thương đến cùng”. Thật vậy, tâm thế của một người sắp đi xa, họ thường chu đáo, quan tâm, lo lắng cho người ở lại, nhất là những người mình yêu thương. Một người mẹ sắp đi xa, còn làm được gì cho con cái thì bà tận dụng thời gian còn lại để làm, như quét dọn phòng ốc, vá chiếc áo quần, chuẩn bị đồ ăn trong tủ lạnh, thuốc men bên giường của con… và lặp đi lặp lại những lời dặn dò kỹ lưỡng…

Chúa Giêsu cũng đã căn dặn các môn đệ rất nhiều điều, nhưng có lẽ điều quan trọng mà Ngài nhấn mạnh nhất trong bữa tiệc ly đó là: “hãy yêu thương nhau và phục vụ lẫn nhau”. Đứng trước hành vi và thái độ khiêm nhường cúi xuống phục vụ của Chúa Giêsu, các môn đệ không khỏi ngỡ ngàng và bối rối. Bởi lẽ, trong tâm thức của họ vẫn còn những ước mơ vinh hoa, quyền lực và tự phụ. Họ vẫn dò xét xem ai là người làm lớn giữa anh em với nhau? Khi nào thì thầy Giêsu sẽ khôi phục vương quốc Israel và ai sẽ được ngồi bên tả bên hữu Thầy trong vinh quang…?

Đi sâu vào ánh mắt và nội tâm của CG, ta thấy hình ảnh một Đấng Messia cúi xuống rửa chân như người tôi tớ phục vụ, có lẽ đã trái ngược với suy nghĩ của nhiều người trong các môn đệ. “Chúa mà rửa chân cho con sao? Không đời nào con chịu đâu?” Ánh mắt nhìn của CG vào các môn đệ và thốt lên: “"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy", và kết luận của Ngài là: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em.” Chúa Giêsu đã nói và đã thực hiện điều đó bằng hành động cụ thể, đó là cúi xuống phục vụ anh em mình.

Có lẽ, niềm khao khát phục vụ của Chúa Giêsu rất mạnh mẽ. “KHÁT” ở đây không chỉ là động từ chỉ việc khát nước, nhưng chính là khao khát phục vụ anh em trong tình yêu thương, và để anh em học theo hành vi yêu thương đó mà phục vụ lẫn nhau. Thật vậy, nếu phục vụ mà không có tình yêu thương tựa như “thanh la phèng phèng, chũm chọe, xoang xoảng…”, người ta dễ trở thành người thợ làm mướn, làm công ăn lương…hoặc thậm tệ hơn, như một người nô lệ vì sợ hãi mà phục vụ chủ mình. Dĩ nhiên, CG đã làm công việc như người nô lệ là rửa chân cho chủ, nhưng thái độ và hành vi của CG được xuất phát từ tình yêu tự hiến.

Đỉnh cao của tình yêu tự hiến là hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu thương. Thật vậy, CG đã “đến trần gian không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tình yêu tự hiến thể hiện qua thái độ khiêm nhường phục vụ, xóa hủy mình ra không, hy sinh cả mạng sống mình cho người mình yêu. Khi đọc đoạn thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi cho tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta mới thấy CG yêu thương chúng ta đến mức nào: “Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá.” (Pl 2,6-11).

Yêu là trao ban, là hy sinh, là bỏ mình, là phục vụ lẫn nhau. Thật vậy, một trong các đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu.

Hình ảnh của CG KHÁT yêu thương và KHÁT phục vụ, tựa như cây nến chịu tan chảy chính mình để chiếu sáng cho mọi người. Cũng thế, nếu không chịu hủy mình, thiệt thân và hy sinh, ta không thể nào phục vụ anh chị em mình được. Chẳng hạn, muốn đi làm từ thiện ta phải hy sinh không chỉ tiền bạc mà còn cả thời gian công sức và tâm huyết. Muốn tham gia một hội đoàn (ca đoàn, hội hiền mẫu, gia trưởng, thiếu nhi TT…), ta phải hòa mình, hòa đồng, hòa nhã với mọi người, nếu muốn cho bầu khí cộng đoàn được bình an, hiệp nhất, mỗi người phải từ bỏ cái tôi, ý riêng nhiều hơn, dẹp bỏ tính tự ái, hơn thua, ghen tị, chỉ trích, xoi mói, dèm pha, khinh thị… Thậm chí, nếu tâm ta có đủ tình yêu thương, thì những lỗi lầm, thiếu xót của người khác đối với ta chỉ tựa như nắm muối nhỏ bỏ vào biển sông mênh mông, chẳng hề thấy mặn mà, chua chát gì cả.

Nhìn vào gương mẹ Têrêsa Calcutta, ta thấy mẹ dành cả đời để cúi mình xuống phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, què quặt, đui mù, ghẻ lở… Hay như ĐTC Phanxio, từ khi nhận chức Giáo Hoàng (2013-nay), ngài luôn tổ chức thánh lễ tiệc ly ở trong các nhà tù, thăm viếng, ủi an và cúi mình xuống rửa chân cho những người tu tội đó. Đã không ít người ôm chặt lấy ĐTC mà khóc lóc, mà vui sướng và cảm động, vị họ thấy mình được tôn trọng và yêu thương. Tuy hành động nhỏ bé, nhưng với tình yêu lớn lao, có thể ĐTC đã gieo niềm tin yêu, hy vọng vào tâm hồn những tù nhân đã bị tổn thương, đau khổ, và thiếu vắng tình yêu.

Câu hỏi phản tỉnh:

-            Có bao giờ ta thốt lên lời nguyện: “Lạy Chúa! Xin cho con chỉ biết khao khát một mình Chúa”?

-            Tôi có cảm nhận về việc được TC yêu thương và chăm sóc không? Như thế nào?

-            Đâu là những lời mời gọi Chúa dành cho tôi trong việc yêu thương và phục vụ anh chị em mình?

-            Tôi có cảm thấy xấu hổ, mất công, mệt mỏi khi phục vụ anh chị em mình không? Động lực nào thúc đẩy tôi phục vụ anh chị em mình? Nếu được chọn lựa một việc nào đó để phục vụ anh chị em, tôi sẽ chọn lựa việc nào, cụ thể ra sao?